Vườn rau Lộc Hưng tiếp tục ghi tên
vào một chuỗi danh sách dài về tranh chấp đất đai giữa chính quyền địa
phương và các nhóm dân cư, tương tự như Văn Giang, Tiên Lãng (vụ án ông
Đoàn Văn Vươn), hay Đồng Tâm.
Một chủ hộ đứng giữa đống đổ nát sau vụ cưỡng chế tháo dỡ nhà ở vườn rau Lộc Hưng - TP. Hồ Chí Minh, tháng 1/2019. Ảnh: Facebook Nguyễn Tín. |
Trong
vụ Lộc Hưng, tình hình có vẻ còn phức tạp hơn cả những vụ việc nói
trên, bởi các yếu tố chiến tranh, quá trình chuyển đổi chính quyền giữa
Quốc gia Việt Nam (State of Vietnam) và Việt Nam Cộng Hòa (Republic of
Vietnam), quá trình chuyển đổi nhà nước giữa Việt Nam Cộng Hòa, Cộng Hòa
Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa sau năm 1975. Có nhiều
vấn đề pháp lý cần cân nhắc trong vụ việc, bao gồm việc có thể xác lập
quyền sử dụng đất ngay tình hay không (thuê, mướn tạm thời hay được
giao), quốc hữu hóa (với Quyết định 111 của Hội đồng Chính phủ), sử dụng
đất ổn định lâu dài, và các vấn đề liên quan đến quy hoạch đô thị.
Tuy
nhiên, dù đơn giản hay phức tạp, vụ việc nào cũng cho thấy tình trạng
leo thang căng thẳng giữa người dân và chính quyền. Nặng thì gây thương
tích như vụ án Đoàn Văn Vươn, mang tính tập thể cao thì có vụ bắt giữ
nhân viên công quyền tại Đồng Tâm, và nhẹ nhất là chính quyền phá hủy
hàng trăm căn nhà ngay dịp giáp Tết trong tuần vừa qua ở vườn rau Lộc
Hưng.
Đúng
sai còn cần được thảo luận thêm, và những thông tin, bình luận tràng
giang đại hải về vụ việc trên mạng xã hội có lẽ cũng đã quá đủ khiến bạn
đọc rối rắm. Trong khi đó, chính quyền với các lực lượng công an, cảnh
sát thì thường ở vị trí có lợi hơn so với người dân trong cơ chế giải
quyết tranh chấp hiện nay. Song, những vụ việc nói trên đều có điểm
chung là tính xung đột giữa hai bên đã được đẩy lên mức căng thẳng rất
cao; điều mà đáng lẽ ra một hệ thống pháp luật hiệu quả có thể kiểm soát
được.
Bài
viết này, vì vậy, tập trung vào vấn đề đang được xem nhẹ nhất hiện nay:
Liệu có cách nào thi hành những quyết định cưỡng chế, tháo dỡ mà không
gây ra xung đột hay không?
Cưỡng chế tháo dỡ: không hiếm trên thế giới
Điểm
người viết không đồng tình với một số cá nhân những người đang vận động
ủng hộ người dân khu vực vườn rau Lộc Hưng là quan điểm cho rằng pháp
luật của các quốc gia trên thế giới luôn nhân văn, không có cưỡng chế,
không có tháo dỡ, người dân luôn luôn được bồi thường thỏa đáng theo yêu
cầu, cơ quan công quyền phải có lệnh của tòa mới được cưỡng chế .v.v.
Đó đều là những luận điểm có phần thiếu khách quan, và có nguy cơ tạo ra
những kỳ vọng sai lệch khi xây dựng hệ thống pháp luật trong tương lai.
Tình
hình thực tế trong hệ thống pháp luật tại các quốc gia khác cho thấy,
hầu hết các chính quyền đều vẫn giữ cho mình thẩm quyền xử lý và cưỡng
chế vi phạm xây dựng, vi phạm đất đai để đảm bảo việc quy hoạch và quản
lý đô thị, cũng như kiểm soát các hành vi sai phạm có thể xảy ra. Những
quy định này, tại một số nơi còn có thể nói là có phần hà khắc.
Ví
dụ, trong Đạo luật Xây dựng (Building Act) của Australia vào năm 1993,
điều 16B quy định, các cá nhân, thể nhân trong lĩnh vực xây dựng biết
(và bắt buộc là phải biết) các loại công trình nhất định cần có giấy
phép để xây dựng nhưng chưa xin; hoặc giả nếu họ biết rằng giấy phép vẫn
chưa có hiệu lực, mà vẫn thực hiện công việc xây dựng thì có khả năng
chịu trách nhiệm hình sự với hình phạt tù lên đến 5 năm cùng với khoản
phạt là 600 đơn vị phạt (penalty units) dành cho cá nhân; 3.000 đơn vị
phạt cho thể nhân. Chủ đất có khả năng bị phạt ở mức 500 đơn vị hoặc
2.500 đơn vị phạt (tùy cá nhân hay thể nhân). Người tham gia hoạt động
xây dựng không phép cũng có thể bị phạt ở mức tương tự như chủ đất.
Tiếp
theo, chủ đầu tư có hai lựa chọn, một là phải tự nguyện tháo dỡ; hai là
giải trình lý do vì sao xây dựng không phép hoặc lý giải vì sao công
trình mình xây dựng là phù hợp với quy định của Luật. Nếu chính quyền
hội đồng địa phương cho rằng những lý giải này là không phù hợp, việc
cưỡng chế phá dỡ và di dời sẽ được thực thi.
Tương
tự, tại Anh cũng với một đạo luật cùng tên (Building Act 1984), các
công trình được xây dựng không phép hoặc xây dựng vi phạm pháp luật cũng
đều đối mặt với khả năng bị cưỡng chế tháo dỡ theo Điều 36.
Tại
Hoa Kỳ, với quỹ đất đai còn dồi dào, không phải bao giờ người xây dựng,
sửa chữa nhà ở cũng cần phải có giấy phép xây dựng. Thậm chí, giấy phép
xây dựng cũng không có giá trị hành chính như nhiều quốc gia khác. Đối
với công trình trên đất do chính người sở hữu hợp pháp thực hiện xây
dựng, bỏ qua thủ tục xin giấy phép xây dựng thường đi kèm với các hệ quả
dân sự, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (như cháy nổ, sự kiện bất
khả kháng) hoặc mất khả năng kiện đòi bảo hiểm, v.v. Tuy nhiên, tại
nhiều thành phố lớn và đông dân cư như New York, chính quyền tiểu bang
đặt ra nhiều yêu cầu về quy trình, quy cách xây dựng, và giấy phép xây
dựng là không thể tránh khỏi.
Những
ví dụ trên không nhằm bao biện cho hành vi sai trái, nếu có, của lực
lượng cưỡng chế tại Việt Nam. Người viết chỉ hy vọng có thể tạo nên một
sự đồng thuận chung rất cần thiết với người đọc, đó là bản thân biện
pháp cưỡng chế, tháo dỡ, di dời công trình xây dựng của người dân không
phải là vấn đề và không nên bị mặc nhiên xem là một sai lầm về chính
sách, hay là một sự vi phạm về quyền con người.v.v. Chúng ta vốn không
nên mô tả biện pháp này theo cách đó.
Bởi
vì quy hoạch đô thị và các biện pháp cưỡng chế để bảo đảm quy hoạch đô
thị được chấp hành vốn là một hoạt động hành chính bình thường,
“business as usual”. Chúng diễn ra thường xuyên nhằm bảo đảm mật độ dân
số không tăng cao, bảo đảm chỉ số sinh sống của công dân, phòng tránh
các khu ổ chuột hình thành, và giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến
cảnh quan đô thị.
Song,
như đã nói ở trên, tất cả những xung đột lợi ích vốn dĩ rất bình thường
ở rất nhiều nơi trên thế giới, lại luôn trở thành các mối xung đột
nghiêm trọng giữa nhà nước và người dân tại Việt Nam.
Vì sao lại như vậy?
Hệ thống khiếu nại và tư pháp hoàn toàn vô tác dụng?
Người
dân Việt Nam hiện nay, rõ ràng đang tránh xa các công cụ tư pháp để
giải quyết tranh chấp giữa chính quyền và người dân. Chúng ta có thể dự
đoán một phần là vì họ không cho rằng đây là một kênh bảo vệ quyền lợi
hiệu quả. Đến nay, chưa có nghiên cứu nào dám làm sáng tỏ những lý do và
động lực của người dân. Nhưng về mặt lý thuyết, trong nỗ lực lý giải
hiện tượng nói trên, nhiều luật gia và luật sư rất có thể sẽ đều đồng ý
rằng, quy định về hiệu lực pháp lý của quyết định trong giai đoạn bị
khiếu nại đóng vai trò rất quan trọng.
Được
ghi nhận tại Điều 12 của Luật Khiếu nại 2011, một trong những nghĩa vụ
quan trọng nhất của người khiếu nại – khởi kiện quyết định hành chính,
hành vi hành chính là họ phải ‘chấp hành quyết định hành chính, hành vi
hành chính mà mình khiếu nại trong thời gian khiếu nại’.
Hiểu
một cách đơn giản, nếu bạn không đồng ý với quyết định cưỡng chế tháo
dỡ công trình đã xây dựng và khởi kiện quyết định nói trên ra Tòa hành
chính có thẩm quyền (hoặc khiếu nại người ra quyết định), thì trong thời
gian tòa (hoặc cơ quan chức năng) xem xét đơn khiếu nại hay yêu cầu
khởi kiện, bạn sẽ vẫn bị buộc phải thi hành. Điều này có nghĩa là bạn
phải chấp nhận việc các cơ quan chức năng có thể sẽ tiến hành tháo dỡ
nhà mình trong thời gian khiếu kiện.
Đó
là vì về bản chất, quyết định mà người dân đang khiếu nại vốn chưa bị
xem là một quyết định hành chính trái luật. Thế nên về mặt pháp lý, nó
vẫn có hiệu lực của “mệnh lệnh nhà nước” mà người dân phải chấp hành,
thậm chí là phục tùng. Oái oăm thay, chính điều này lại khiến cho lý do
và mục tiêu quan trọng nhất trong việc người dân khởi kiện vụ án hành
chính ra trước tòa – là bảo vệ tài sản của mình – lại không thể đạt
được.
Nhiều
người có thể sẽ chỉ ra, Luật Khiếu nại hiện nay đã ghi nhận việc áp
dụng biện pháp khẩn cấp theo Điều 35. Tức là người giải quyết đơn khiếu
nại sẽ ra quyết định tạm đình chỉ việc thi hành một quyết định, hành vi
hành chính khi xét thấy việc thi hành quyết định, hành vi bị khiếu nại
sẽ gây hậu quả khó khắc phục được. Tuy nhiên, tình hình thực tiễn tại
Việt Nam cho thấy, quyết định tạm đình chỉ thi hành này mang tính chủ
quan và không có quá nhiều sức nặng đối với các cơ quan nhà nước đang bị
khiếu nại, khởi kiện vì quyết định mà họ ban hành.
Thậm
chí, kể cả phán quyết chung thẩm của Tòa về tính hợp pháp của quyết
định hành chính do cơ quan chính quyền các cấp ban hành cũng không có
mấy tác dụng.
Theo
một thống kê chính thức năm 2017, sau khi nhận được phán quyết của Tòa,
trong vỏn vẹn trên dưới 300 vụ khởi kiện án hành chính trên cả nước, đã
có đến 85 vụ việc mà cơ quan nhà nước không chịu thi hành bản án. Trong
đó, có năm vụ liên quan đến quyết định, hành vi hành chính của Ủy ban
Nhân dân, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh.
Đối
với một số vụ việc tại thành phố Hồ Chí Minh, các cơ quan đã viện dẫn
nhiều lý do không được ghi nhận trong luật để tự hoãn thi hành án.
Kinh
khủng hơn, mới đây, cơ quan Kiểm lâm Tuyên Quang cũng có văn bản “chê”
bản án của Tòa án Cấp cao tại Hà Nội là xử sai luật và không chịu chấp
hành.
Với
thái độ “lồi lõm” của chính cơ quan công quyền đối với hệ thống tư pháp
như thế, thì có gì phải ngạc nhiên khi nhiều người dân cho rằng, họ sẽ
khó có thể được bảo vệ cả về mặt pháp luật hay thực tiễn khi đi theo con
đường khởi kiện.
Xuống
đường, biểu tình, kể cả “ăn vạ”, hay “xây dựng trái phép”, đáng tiếc
thay, lại là những biện pháp có phần hữu hiệu hơn để tìm kiếm sự đồng
thuận và ủng hộ của công chúng.
Khi lòng tin đã mất
Trong
phát biểu về vụ vườn rau Lộc Hưng, Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Thiện
Nhân có lẽ đang quá xem nhẹ các tranh chấp đất đai và cả sự bất mãn của
người dân liên quan.
Suy
cho cùng, nguồn gốc tính chính danh của Việt Minh và chính quyền Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa cho đến tận ngày nay vẫn dựa trên một lời hứa về
đất đai, về một viễn cảnh của một nơi mà tài sản, ruộng vườn của công
dân, bất kể giai cấp, không bị xem nhẹ. Đó là điều mà các chính quyền
trước đó đã không thể chuyển tải một cách trọn vẹn.
Vậy
nên, khi vị bí thư của một Đảng ủy to lớn như tại TP.HCM cho rằng, việc
giải tỏa hơn 100 căn nhà trong dịp cận Tết như thế này là “bình
thường”, thì rõ ràng nội bộ đảng Cộng sản vẫn chưa quán triệt được sức
mạnh tiền thân của mình đến từ nơi đâu.
Trong
khi đó, các vụ xì-căng-đan về đất đai của chính quyền trung ương lẫn
địa phương tại Việt Nam trong thời gian qua vẫn không có dấu hiệu giảm
nhiệt. Từ khu đất của các nhóm lợi ích tại Tân Sơn Nhất, đến Long Thành,
đến nghi vấn chạy dự án đất tại các Đặc khu Kinh tế, những câu chuyện
biệt phủ, nhà đất quan chức từ trên trời rơi xuống, chúng đều cho thấy
người dân có lý do để nghi ngờ là mọi chính sách đất đai của nhà nước có
lẽ cũng chỉ để phục vụ một số ít mà thôi.
Không chỉ vậy, pháp luật Việt Nam hiện nay cũng tạo lợi thế cho cơ quan thi hành pháp luật hơn là cho công dân.
Một
đặc quyền quan trọng trong số đó, là cho phép cơ quan chức năng ngâm dự
án và xử lý nhà ở xây dựng trái pháp luật trong thời gian bao lâu cũng
được. Đây là một trong những lý do khiến cho vụ tranh chấp giữa chính
quyền quận Tân Bình và người dân Lộc Hưng kéo dài đã gần hai mươi năm.
Nếu
so sánh với pháp luật Anh, trong Đạo luật Xây dựng của họ có một điều
khoản cực kỳ quan trọng (Điều 36(4)). Đó là thông báo chỉnh sửa, phá dỡ
nhà ở, công trình xây dựng của chính quyền địa phương chỉ được phép ban
hành trong vòng 12 tháng kể từ ngày công trình bị cho là vi phạm hoàn
thành. Khi cơ quan công quyền không tăng cường kiểm tra và thực hiện
đúng chức năng của mình trong thời hạn 12 tháng này, họ sẽ mất quyền ưu
tiên “mệnh lệnh nhà nước”, và buộc phải theo đuổi những biện pháp dân sự
tốn kém hơn để phục hồi nguyên trạng đất đai. Đây mới là cách thật sự
tốt để kiểm tra, giám sát sự hiệu quả của quá trình hoạt động của cơ
quan nhà nước, khi đặt họ ở một vai trò chủ động, có trách nhiệm hơn
trong việc quản lý trật tự đô thị.
Vấn đề của cả hệ thống
Người
viết không cho rằng con đường hòa giải, đối thoại và thấu hiểu giữa
chính quyền và người dân trong các tranh chấp đất đai là quá khó, miễn
là các bên tôn trọng lẫn nhau và làm đúng trách nhiệm của mình. Tuy
nhiên, khi mà hệ thống “sở hữu toàn dân” vẫn còn chưa được định nghĩa để
có thể áp dụng một cách hiệu quả hơn, khi mà cơ sở đóng thuế đất đai và
cơ sở bồi thường đất đai còn chưa được xây dựng trên một nền tảng thống
nhất, khi mà lĩnh vực đất đai còn bị lũng đoạn bởi các nhóm lợi ích và
những sổ địa bộ địa phương còn chưa được cải cách, thì mầm mống nảy sinh
mâu thuẫn đất đai tại Việt Nam hiện nay có lẽ không khá khẩm hơn cách
đây 70 – 80 năm là bao.
Võ Văn Quản
(Tạp Chí Luật Khoa)
Không có nhận xét nào