Header Ads

  • Breaking News

    Nguyễn Trang Nhung - Phá thai: Nên hay không nên cấm?

    Đầu tháng 12 vừa qua, chiến dịch "Mẹ ơi. Đừng giết con!" được công bố bởi 2 người sáng lập là Lê Hoàng Thạch và Lê Huỳnh Hà.[1] Chiến dịch nhằm thu thập 100 ngàn chữ ký cho kiến nghị ban hành luật cấm phá thai tại Việt Nam, đồng thời, thúc đẩy nhận thức của mọi người trong việc bảo vệ mạng sống của các thai nhi.

    Hình quảng bá của chiến dịch Mẹ Ơi Đừng Giết Con trên Facebook
    Theo 2 người sáng lập, tình trạng phá thai tại Việt Nam là "một thảm họa nhân đạo vô cùng tồi tệ và cần được chấm dứt ngay lập tức". Các bạn chỉ ra rằng Việt Nam đứng thứ 3 thế giới về phá thai với hơn 300 ngàn ca mỗi năm và con số trẻ em tương ứng bị cướp đi mạng sống mỗi ngày.[2]

    Hai trong số bốn tác động dự kiến của chiến dịch là (1) cứu được hàng trăm ngàn sinh mạng của trẻ nhỏ mỗi năm, góp phần giảm thiểu tỷ lệ phá thai rất cao tại Việt Nam, và (2) mang lại cơ hội bảo vệ phụ nữ, bảo đảm các quyền cho họ cùng con của họ, và hạn chế các hậu quả do phá thai gây ra.[3]

    Bài viết này bàn về hai tác động dự kiến nêu trên của chiến dịch. Câu hỏi được đặt ra là liệu chiến dịch, mà trọng tâm là luật cấm phá thai, sẽ làm giảm tỷ lệ phá thai và hạn chế các hậu quả về thể chất (không nói tới hậu quả về tinh thần) do phá thai gây ra (?). Câu trả lời có thể được tìm thấy qua các nghiên cứu về tình trạng phá thai trên thế giới.

    Trong một nghiên cứu của mình mang tên "Phá thai an toàn: hướng dẫn kỹ thuật và chính sách cho các hệ thống y tế",[4] Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization, WHO) chỉ ra rằng:

    1. Dù phá thai có bị hạn chế về mặt pháp lý hay không, khả năng một phụ nữ sẽ phá thai do mang thai ngoài ý muốn hầu như không đổi. Các hạn chế pháp lý khiến nhiều phụ nữ tìm đến các dịch vụ phá thai không an toàn, thiếu kỹ năng, mất vệ sinh, nên có nguy cơ cao về tử vong hoặc dị tật. Tỷ lệ tử vong ở mẹ do phá thai không an toàn trên 100 ngàn ca sinh sống ở các quốc gia có nhiều hạn chế về phá thai cao hơn ở các quốc gia có ít hoặc không có hạn chế về phá thai.

    2. Ở hầu hết các quốc gia đã phát triển, phá thai an toàn là được phép dựa trên yêu cầu hoặc cơ sở kinh tế xã hội của thai phụ, và các dịch vụ phá thai là sẵn có và dễ dàng tiếp cận. Còn ở các quốc gia cấm hoặc hạn chế phá thai cao độ, phá thai an toàn trở thành đặc quyền của người giàu, trong khi người nghèo có ít lựa chọn ngoài các cơ sở phá thai không an toàn, dẫn đến tử vong và dị tật nhiều hơn.

    3. Bằng chứng cho thấy việc dỡ bỏ các hạn chế đối với phá thai dẫn đến giảm tử vong ở mẹ do phá thai không an toàn, và do đó, giảm tử vong ở mẹ nói chung.

    Viện Guttmacher (Guttmacher Institute), một tổ chức phi chính phủ về sức khỏe sinh sản, cũng có các nghiên cứu đáng tin cậy về phá thai. Sau đây là một số kết quả nghiên cứu của viện này và WHO trong báo cáo "Thực tiễn về phá thai trên thế giới":[5]

    1. Luật hạn chế phá thai không làm giảm tỷ lệ phá thai. Ví dụ, tỷ lệ phá thai tính trên 1000 phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ là 29 ở châu Phi, 32 ở châu Mỹ La-tinh, là các vùng mà cấm phá thai trong hầu hết trường hợp. Tỷ lệ này là 12 ở Tây Âu, nơi phá thai nhìn chung được cho phép rộng rãi.

    2. Khi phá thai được cho phép rộng rãi, phá thai nhìn chung là an toàn, và ở nơi nào phá thai bị hạn chế cao độ, phá thai đặc biệt là không an toàn. Riêng tại các quốc gia đang phát triển, các quốc gia nào có luật cho phép phá thai tương đối tự do có ít hậu quả tiêu cực về sức khỏe do phá thai không an toàn hơn các quốc gia có luật hạn chế phá thai cao độ.

    3. Ở Nam Phi, nơi tự do hóa phá thai vào năm 1997, số ca tử vong liên quan đến phá thai giảm 91% giữa 1994 và 1998 – 2001. Ở Nepal, nơi phá thai được cho phép rộng rãi vào năm 2002, các biến chứng liên quan đến phá thai có vẻ giảm. Một nghiên cứu cho thấy các biến chứng liên quan đến phá thai chiếm 54% các ca bệnh về thai sản được điều trị vào năm 1998, trong khi tỷ lệ này là 28% trong các năm 2008 – 2009.

    Hai nghiên cứu trên đây cho câu trả lời rõ ràng rằng các hạn chế pháp lý về phá thai không dẫn đến giảm tỷ lệ phá thai cũng như các hậu quả về thể chất do phá thai gây ra. Nhiều nghiên cứu của các cá nhân, tổ chức khác cũng cho thấy như vậy. Điều này đúng ít nhất trên bình diện chung của thế giới.

    Đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, điều này rất có thể đúng. Do đó, việc ban hành luật cấm phá thai tại Việt Nam rất có thể không giúp ích gì cho các mục tiêu cao đẹp của 2 người sáng lập chiến dịch, mà có thể gây tác động trái ngược với các mục tiêu đó.

    Thiết nghĩ, các bạn Thạch và Hà có thể tạm ngưng chiến dịch để thực hiện nghiên cứu đầy đủ dựa trên bằng chứng, tự mình hoặc với sự giúp sức của các cá nhân và tổ chức khác, nhằm tìm ra các giải pháp thích hợp và toàn diện cho vấn nạn phá thai tại Việt Nam.

    Cuối cùng, chia sẻ quan điểm với 2 người sáng lập chiến dịch, người viết không ủng hộ phá thai tự do. Song, để giảm thiểu tỷ lệ phá thai và hạn chế các hậu quả về thể chất do phá thai gây ra, luật cấm phá thai tại Việt Nam dường như không phải là giải pháp. Thay vào đó, giải pháp có thể là giáo dục giới tính, dẹp bỏ các cơ sở phá thai không an toàn hoặc chuyển đổi chúng thành các cơ sở phá thai an toàn, và cùng với đó là nâng cao nhận thức về quyền thai nhi trong tương quan với quyền sinh sản của phụ nữ.

    Nguyễn Trang Nhung


    --------------------
    Chú thích:

    [1] Website của chiến dịch

    [2][3] Như [1]

    [4] WTO (2012), Safe abortion: technical and policy guidance for health systems

    [5] Guttmacher Institute và WHO (2012), Facts on induced abortion worldwide

    * Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do

    (RFA) 

    Không có nhận xét nào