Trở thành một quốc gia độc lập vào tháng 8 năm 1965, Singapore khi ấy
đối mặt với nhiều vấn đề chính sách, trong đó có vấn đề ngôn ngữ. Trên
vùng đất nhỏ bé này, người Malay, người Hoa, người Ấn và một số sắc tộc
khác cùng sinh sống và có tiếng nói riêng. Dưới thời thuộc địa, các sắc
tộc được tự do sử dụng ngôn ngữ theo lựa chọn của họ, mà theo lẽ thường
là sắc tộc nào sử dụng tiếng mẹ đẻ của sắc tộc ấy (chủ yếu là tiếng
Malay của người Malay, tiếng Hoa của người Hoa và tiếng Tamil của người
Ấn). Sự đa dạng này, tuy nhiên, lại là trở ngại đối với một cộng đồng
vốn xa cách vì thiếu những đặc điểm chung.
|
Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu phát biểu tại lễ khai mạc Hội
nghị Liên minh Báo chí vào ngày 15 tháng 10 năm 1990 tại Hồng Kông. |
Khi thành lập chính quyền vào năm 1959 để chuẩn bị sáp nhập Singapore
vào Malaysia, Lý Quang Diệu đã quyết định chọn tiếng Malay làm quốc
ngữ, song ông nhận ra rằng tiếng Anh phải trở thành ngôn ngữ nơi làm
việc và ngôn ngữ chung, bởi theo ông, với tư cách là một cộng đồng giao
thương quốc tế, người dân Singapore sẽ không kiếm sống được nếu dùng
tiếng Malay, tiếng Hoa hay tiếng Tamil. Đó là chưa kể sự khác biệt về
ngôn ngữ gây khó khăn trong hoạt động của lực lượng vũ trang và trong cả
bộ máy chính quyền.[1]
Nhu cầu phải có một ngôn ngữ chung là rất rõ ràng. Song vấn đề là làm
thế nào để tiếng Anh được đón nhận trong khi các sắc tộc đều nhiệt tình
bảo vệ tiếng nói riêng của họ. Lý Quang Diệu đã đề xuất việc học tiếng
Malay, tiếng Hoa và tiếng Tamil trong các trường tiếng Anh, và đảo lại
là việc học tiếng Anh trong các trường tiếng Malay, tiếng Hoa và tiếng
Tamil.[2] Phạm vi của đề xuất là các trường trung học của chính phủ hay
do chính phủ tài trợ, dọn đường cho việc dạy và học bằng tiếng Anh trong
các trường đại học. Chính sách được công bố vào tháng 11 năm 1965, và
có hiệu lực vào năm 1966.[3]
Phản ứng trước chính sách, các phụ huynh người Malay và người Ấn đón
nhận còn các phụ huynh người Hoa thì không.[4] Thậm chí, những người Hoa
sốt sắng nhất đã hành động trước khi chính sách được công bố. Phòng
Thương mại người Hoa, 8 tuần sau khi Singapore độc lập, đã công khai yêu
cầu chính phủ bảo đảm vị thế của tiếng Hoa như ngôn ngữ chính thức, với
sự nhấn mạnh rằng người Hoa chiếm đến 80% dân số Singapore. Lý Quang
Diệu đã từ chối thẳng thừng yêu cầu đó và khiến họ hiểu rằng ông không
cho phép bất cứ ai khai thác tiếng Hoa trở thành vấn đề chính trị và đặt
dấu chấm hết cho những âm mưu nâng cao vị thế tiếng Hoa.[5].
|
Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu nói
chuyện với Tổng thống Mỹ George Bush tại dinh thự chính của đại sứ Mỹ
tại Tokyo ngày 24 tháng 2 năm 1989 sau khi tham dự đám tang của Hoàng đế
HIrohito.
AFP
|
Trong số những người phản đối dữ dội nhất có các giảng viên và các
sinh viên tiếng Hoa từ Đại học Nanyang và Cao đẳng Ngee Ann. Các sinh
viên đã thể hiện sự phản đối bằng cách biểu tình trong khuôn viên của
trường hoặc trước văn phòng của Lý Quang Diệu. Cùng phía với họ là các
chủ báo, chủ bút và phóng viên báo tiếng Hoa. Các nhóm này đã vận động
các phụ huynh gửi con vào các trường tiếng Hoa, và phê phán các phụ
huynh gửi con vào các trường tiếng Anh là những kẻ thực dụng và thiển
cận.[6] Sự vận động dường như hiệu quả, khi vào năm 1966, số lượng học
sinh, sinh viên vào các trường tiếng Hoa tăng lên đến hơn 55%.[7]
Đáp lại sự phản đối này trong khi cần lá phiếu của người Hoa, Lý
Quang Diệu đã để các phụ huynh tự do lựa chọn cũng như để thị trường lao
động quyết định lựa chọn của họ trong tương lai. Kết quả là, vào thập
niên 70, các sinh viên các trường tiếng Hoa khi ra trường khó xin việc,
từ đó dẫn đến một cuộc chạy đua vào các trường tiếng Anh. Cuộc chạy đua
nhanh đến mức ông phải đề nghị họ chậm lại bởi số lượng giáo viên tiếng
Anh không đủ để đáp ứng nhu cầu.[8] Sự chuyển dịch của các sinh viên
sang các trường tiếng Anh diễn ra cho đến khi dường như không ai còn băn
khoăn khi lựa chọn các trường tiếng Anh nữa.
Một chủ trương có liên quan đến chính sách là khuyến khích người Hoa
dùng tiếng Hoa phổ thông, tức tiếng Quan thoại, thay vì dùng phương ngữ.
Cho đến cuối thập niên 70, khoảng 60% người dân vẫn dùng chủ yếu phương
ngữ tại nhà.[9] Trước thực trạng đó, vào năm 1979, Lý Quang Diệu đã
phát động chiến dịch nói tiếng Quan thoại và dùng uy tín của mình để
thuyết phục mọi người dùng tiếng này. Bên cạnh đó, ông đã hạn chế các
chương trình bằng phương ngữ trên tivi và radio. Chiến dịch đã có tác
dụng. Từ năm 1980 đến năm 1990, tỷ lệ người dân dùng chủ yếu tiếng Quan
thoại tại nhà đã tăng từ hơn 10% lên đến gần 24%.[10]
Là một người Hoa, bản thân Lý Quang Diệu không phải không lo lắng về
hệ quả của chính sách song ngữ đối với văn hóa Trung Hoa. Chính ông cảm
thấy mất kết nối với nền văn hóa này vì được giáo dục từ nhỏ bằng tiếng
Anh. Thêm vào đó, ông nhận thấy chính sách đã làm cho các sinh viên trở
nên ngoại lai, thiếu năng động và quan tâm về mặt chính trị – xã hội như
trong quá khứ. Giải pháp của ông cho vấn đề này là giữ lại 9 trường
tiếng Hoa tốt nhất dưới sự bảo trợ của một chương trình trợ giúp đặc
biệt. Các trường này, theo ông, đã thành công trong việc giữ gìn kỷ luật
và nghi thức xã hội của các trường tiếng Hoa truyền thống.[11]
Bảng: Tỷ lệ người dân dùng ngôn ngữ chính tại nhà ở Singapore (%) (Nguồn: Tổng hợp)
Nhờ chính sách song ngữ, tiếng Anh đã sớm trở thành ngôn ngữ thống
trị nơi làm việc. Ngày nay, tiếng Anh thậm chí trở thành ngôn ngữ thống
trị trong các gia đình, thay thế vị trí của tiếng Hoa phổ thông trong
mấy thập niên trước. Theo một khảo sát của chính phủ Singapore vào năm
2015, 36,9% người dân dùng tiếng Anh như ngôn ngữ chính tại nhà. Đối với
tiếng Hoa phổ thông, tỷ lệ này là 34,9%. Ngoài ra, chỉ còn 12,2% người
dân dùng phương ngữ, và 73,2% người dân biết ít nhất 2 ngôn ngữ.[12]
Hơn 5 thập niên trôi qua, cho dù còn những tranh cãi về chính sách
song ngữ, nhất là tác động làm mai một các phương ngữ cũng như sự thiếu
thành thạo đồng thời cả tiếng Anh và tiếng mẹ đẻ trong trong một tỷ lệ
không nhỏ người Singapore, song ít ai có thể phủ nhận rằng tiếng Anh đã
góp phần quan trọng vào sự phát triển và thịnh vượng của Singapore. Đảo
quốc này từ lâu đã trở thành điểm đến của nhiều công ty nước ngoài và là
một trung tâm tài chính một phần là nhờ ngôn ngữ nơi đây là ngôn ngữ
toàn cầu.
Xét về phương diện văn hóa, Lý Quang Diệu đã làm những gì có thể để
bảo tồn văn hóa Trung Hoa, để người Hoa còn tìm thấy những nét độc đáo
của mình trong một đất nước trên đà Tây hóa với ngôn ngữ chung là tiếng
Anh. Bên cạnh đó, ông đã làm tiếng Anh trở thành phương tiện kết nối các
sắc tộc khác nhau, ngăn ngừa xung đột và mâu thuẫn giữa họ, làm tăng
tính đồng nhất của người dân trong một quốc gia. Và, đúng như ông chia
sẻ, “Để tồn tại như một quốc gia thống nhất, bạn cần phải có chung một vài đặc điểm nhất định”.[13]
Nguyễn Trang Nhung
---------------
Chú thích:
[1][2] Lý Quang Diệu (2000), Bí quyết hóa rồng: Lịch sử Singapore 1965 – 2000
[3] Breaking down barriers with bilingualism
https://www.straitstimes.com/singapore/education/breaking-down-barriers-...
(Đối với bậc tiểu học, việc học ngôn ngữ thứ hai được thực hiện kể từ năm 1960)
[4][5][6] Như [1]
[7][8] In his own words: English for trade; mother tongue to preserve identity
https://www.straitstimes.com/singapore/in-his-own-words-english-for-trad...
[9][10] Bolton và Ng (2014), The dynamics of multilingualism in contemporary Singapore
[11] Như [1]
[12] Department of Statistics Singapore (2016), General household survey 2015
http://www.singstat.gov.sg/docs/default-source/default-document-library/...
[13] Fareed Zakaria (1994), Culture is destiny: A conversation with Lee Kuan Yew
(
Bài viết được đưa ra nhân khi đề xuất công nhận tiếng Anh là
ngôn ngữ thứ hai tại Việt Nam được báo chí nêu ra và thảo luận trong
những ngày gần đây. Người viết hi vọng rằng việc tìm hiểu về chính sách
song ngữ của Lý Quang Diệu sẽ giúp ích cho cuộc thảo luận này.)
* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do
(RFA)
Không có nhận xét nào