Hiện nay trên thế giới vẫn còn một số
chế độ độc tài ở mức độ khác nhau trong đó có loại chế độ độc tài toàn
trị cộng sản. Chế độ này có nhiều sự giống và khác chế độ độc tài phong
kiến là chế độ phổ biến trên thế giới cho đến thế kỷ 20. Nay thử so sánh
giữa hai chế độ này.
Hình minh họa |
Giống
-
Điểm chung quan trọng nhất mang tính chi phối các đặc điểm chế độ độc
tài phong kiến và cộng sản toàn trị là nhà cầm quyền không do dân bầu ra
mà do chiến thắng quân sự hoặc tranh cướp hoà bình giành được.
Do
nhà cầm quyền không từ dân bầu, không có sự phán xét, giám sát của nhân
dân(gồm các cuộc tổng tuyển cử, trưng cầu dân ý, Quốc hội do dân thực
sự bầu, báo chí, văn học, nghệ thuật... tự do) nên quan điểm chính trị,
phẩm chất, năng lực,trình độ quản lý đất nước của nhà cầm quyền chế độ
độc tài là ngẫu nhiên, may rủi. Nhân dân, đất nước có phúc thì gặp được
ông vua(phong kiến), nhà lãnh đạo, Tổng bí thư (cộng sản) có tài, vì
nước vì dân như vua Lê Thánh Tông, Trần Nhân Tông ở VN, vua Minh Trị ở
Nhật, Pyotr Đại đế ở Nga hoặc những ông vua khốn nạn như Trần Dụ Tông,
Lê Uy Mục, Lê Chiêu thống...
-
Ở chế độ độc tài quyền của vua, nhà lãnh đạo(tổng bí thư hoặc bộ chính
trị-vua tập thể”(Lời ông Nguyễn Văn An nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ
tịch Quốc hội VN) là trên hết, tất cả các thiết chế xã hội như luật
pháp, nguyên tắc, đạo đức... đều dưới ý chí của vua, nhà lãnh đạo. Ông
tổng bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng nói: “Hiến pháp là văn kiện chính
trị pháp lý quan trọng vào bậc nhất sau cương lĩnh đảng”( VNExpress
ngày 2/9/2003). Thời gian xem xét dự án bauxite tây nguyên “vua tập thể”
độc tôn quyết định, nhiều nhân sĩ, trí thức kể cả ông Võ Nguyên Giáp
gửi thư can ngăn cũng không được trả lời... Cùng một việc có thể vua,
nhà lãnh đạo độc tài bảo đúng hoặc sai, tốt, xấu, tuỳ ý ( “sáng đúng
chiều sai, mai lại đúng”). Ở chế độ độc tài luật pháp chỉ cơ bản được
vận hành đúng khi nó mang lại lợi ích, lợi thế cho cán bộ, nhà cầm
quyền. Ở chế độ phong kiến vua, quan tuỳ nghi xử dân nên dân ta có câu:
“Nén bạc đâm toạc tờ giấy”. Ở chế độ CS cũng tương tự. Luật gia Ngô Bá
Thành nguyên chủ nhiệm UB pháp luật Quốc hội từng nói đúng: “Chúng ta có
rừng luật nhưng chỉ sài luật rừng”. Việc các vụ dân kiện quan chức,
chính quyền sai phạm rất khó khăn, hầu hết dây dưa, thua kiện trong khi
dân sai phạm nhất là đụng vào chính quyền, quan chức, công an thì pháp
luật được thực thi nhanh chóng, án xử nặng... Dân trộm con vịt bị xử
tù,quan chức, đại gia trộm, làm thất thoát chục tỷ, trăm tỷ chỉ “nghiêm
khắc cảnh cáo, phê bình...”.
-
Cơ quan truyền thông, các tổ chức mang tính chất dân sự của quốc gia
hoàn toàn do vua, nhà cầm quyền độc tài quản lý phán xét, phải hoạt động
phụng sự nhà cầm quyền trên hết, người dân không được có cơ quan ngôn
luận. Dưới chế độ phong kiến nhân dân chỉ được nhận các thông tin như
lời phán, chiếu chỉ, các bài thơ văn ca ngợi vua chúa do các nho
sinh,quan lại... sáng tác ca ngợi chế độ, vua, quan.
Dưới
chế độ độc tài cộng sản nền truyền thông cũng độc quyền của nhà cầm
quyền, được hiện đại hoá như TV, các đài phát thanh, báo in, báo điện
tử, loa phường, xóm, đội tuyên truyền viên... chuyển đến từng gia đình,
người dân, băng rôn, khẩu hiệu, tượng đài ở khắp nơi tất cả phải tuyên
truyền theo định hướng, lợi ích của đảng. Tháng 6/2018 nhà cầm quyền CS
còn ra luật an ninh mạng trong đó có những điều ngăn chặn ý kiến trái
lợi ích nhà cầm quyền của dân trên mạng Internet. Bộ trưởng thông tin
truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng nhắc nhở báo chí chỉ đăng tiêu cực chiếm
10% mặt báo. Tức dù thực tế thế nào thì báo chí của đảng CS cũng chỉ
đăng phần rất nhỏ có chọn lọc phụng sự “vua tập thể” để gây cảm giác báo
chí phản ánh khách quan cho khán, độc giả.
Chế
độ độc tài độc quyền thông tin nên người dân dưới chế độ phong kiến
phải dùng văn học dân gian khuyết danh để lên án chế độ như ca dao: “Con
ơi nhớ lấy câu này/Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan... Bao giờ dân
nổi can qua/Con vua thất thế lại ra quét chùa”... Dưới chế độ độc tài CS
dân không có cơ quan ngôn luận cũng phải phê phán chế độ bằng ca dao,
vè “ Mỗi người làm việc bằng hai/Để cho cán bộ mua đài, mua xe...” (thời
hợp tác xã), hoặc: “Tôn Đản là chợ vua, quan/Nhà thờ của bọn trung gian
nịnh thần...”.
-
Chế độ độc tài phong kiến, CS đều có ý chí tuyệt đối dùng mọi nguồn lực
quốc gia, biện pháp, phương tiện để bảo vệ ngai vàng, quyền cai trị.
Thời phong kiến ai không quy phục triều đình bị ghép tội “khi quân” nhẹ
bị tù đày, nặng tru di tam tộc, dưới chế độ CS những người đòi tự do,
dân chủ, bất đồng chính kiến, hăng háichống Trung Quốc xâm lược, bị gọi
là “phản động, âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân, gây rối trật tự công
cộng...” bị khủng bố, sách nhiễu, bắt giam, xử tù rất nặng, con cháu bị
ghi lý lịch trả thù.
-
Đặc điểm chung của chế độ độc tài là khó có khả năng thích ứng với hoàn
cảnh, thời đại nên bị suy thoái, tàn tạ theo thời gian. Ban đầu các thủ
lĩnh phong kiến hoặc CS còn tốt, nêu ra, thực thi những chính sách hợp
lòng dân nên tập hợp được nhiều người ủng hộ giành được chính quyền. Tuy
nhiên, khi đã nắm quyền do chế độ không phải dân bầu, không có lực
lượng đối lập, báo chí tư nhân phán xét, cảnh báo chỉ có báo chí độc
quyền ca ngợi, pháp luật không dám đụng đến, cấp dưới không dám báo cáo
thật với cấp trên... nên lãnh đạo và hệ thống quan chức nhà cầm quyền
độc tài thấy mình luôn “anh minh, tài giỏi, quang vinh muôn năm...”,
muốn làm gì cũng dễ ,từ đó bản năng tham lam, lộng hành trong họ “có đất
dụng võ”. Thời đại trôi qua, nhu cầu ăn chơi, hưởng lạc, giá “mua quan,
bán chức” tăng cao dẫn đến mỗi thế hệ quan chức độc tài ngày càng tham
nhũng, lưu manh, tàn bạo, sa đoạ không thể ngăn cản nổi. Hãy xem đã bao
năm nay đảng CS hô hào chống tham nhũng nhưng càng chống thì tham nhũng
càng tăng hoặc “ổn định”. Những năm gần đây dù những vụ sai phạm, tham
nhũng lớn liên tục bị phá, nhiều quan chức đến cỡ bộ chính trị, tướng
soái vào tù nhưng khắp nơi tham nhũng vẫn ngang nhiên lộng hành như
“ngày hội”(Báo Dân trí 24/10/2018), các vụ cướp phá, phô trương không
thể dấu diếm như phá rừng lấy gỗ, khai thác cát, khoáng sản, cưỡng chế
cướp bóc đất đai, xây lâu đài, biệt phủ nguy nga... không dứt. Từ đó, uy
thế nhà cầm quyền suy yếu dần đến đáy. Khắp nơi người dân không còn nể
sợ gì quan chức, chính quyền nữa.
Khác
-
Chế độ phong kiến vua có quyền tối cao, mọi quyết định đúng, sai, thành
bại do vua chịu. Lãnh thổ, chủ quyền quốc gia gắn chặt với triều đình,
nếu nước bị xâm chiếm thì triều đình cũng mất, vua, chúa có thể mất
mạng, bị ngoại xâm, phe đối nghịch trừng trị, vì vậy rất nhiều khi vua
phải thân chinh cầm gươm ra trận cùng dân đánh đối địch.
-
Lãnh đạo chế độ độc tài cộng sản là lãnh đạo tập thể, “vua tập thể”.
Nếu đất nước phát triển bình thường thì báo chí độc quyền ca ngợi công
lao vĩ đại của đảng, chính phủ, tổng bí thư, thủ tướng, bộ trưởng nọ,
kia... Ngược lại, nếu đường lối, chính sách sai, “suy nước, hại dân”,
thậm chí để mất lãnh thổ, biển, đảo... thì cũng không ai chịu trách
nhiệm. Dân gian tổng kết “Mất mùa là tại thiên tai, được mùa là tại
thiên tài đảng ta”.
-
Sở hữu tài nguyên quốc gia: Chế độ phong kiến sở hữu đất đai, tài
nguyên hỗn hợp. Nhà nước, tôn giáo sở hữu đất đai, các quan lại, vua
chúa sở hữu điền trang, thái ấp,nhân dân sở hữu thổ cư, ruộng, vườn, ao
hồ. Chế độ phong kiến có khả năng lập các điền trang, thái ấp rộng tạo
cơ sở để sẩn xuất lớn. Dưới chế độ độc tài CS đảng CS quản lý tất cả tài
nguyên, lợi ích quốc gia đất đai, khoáng sản, rừng, biển... Hiến pháp
nói “đất đai sở hữu toàn dân” nhưng không người dân nào được phán xét
một tấc đất ngoài cán bộ đảng CS.
-
Chế độ độc tài phong kiến khi chiến tranh con cháu vua, chúa hoàng tộc
khoẻ mạnh phải trực tiếp ra trận để nêu gương cho quân lính, nếu thua
trận thì mất “cả thiên hạ” nhưng ở chế độ CS, con cháu các quan chức hầu
hết không phải ra trận, nếu có đi lính thì họ cũng chỉ ở hậu phương
hoặc đi học quân sự nọ, kia ở nước ngoài. Tôi đi bộ đội gần 9 năm trong
đó 6 năm ở chiến trường đi nhiều đơn vị nhưng không gặp con cháu nào của
quan chức từ cấp huyện, tỉnh trở lên....
Tóm
lại, do đặc điểm lãnh đạo quốc gia không do dân bầu nên chế độ độc tài
dù ở thời đại nào cũng theo quy luật “nhất nguyên” với nhiều sự tương
đồng như không có dân chủ, luật pháp không nghiêm, quan chức nắm đặc
quyền, đặc lợi chi phối hoạt động xã hội, bộ máy cầm quyền ngày càng
tham nhũng, tha hóa... Những điểm khác giữa hai chế độ chỉ là thứ yếu.
Nguyễn Đình Ấm
(VNTB)
Không có nhận xét nào