Giữa lúc Tổng Bí thư đảng, Chủ tịch
nước Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng vùi đầu vào canh bạc chọn người
cho Đại hội đảng khóa XIII diễn ra vào tháng 01/2021 thì Trung Hoa đã
xiết gọng kìm để chuẩn bị bóp cổ Việt Nam ở Biển Đông.
Hình minh họa |
Hiện tượng này diễn ra ở Việt Nam và Thủ đô Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ trong vòng 6 tháng nửa sau của năm 2018.
Tại
phiên họp lần thứ 11 của Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam –
Trung Quốc diễn ra ngày 16/9 (2018) tại Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn),
Trưởng đoàn Trung Cộng, Ủy viên Quốc vụ, Bộ trưởng Ngoại giao Vương
Nghị đã nói với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao CSVN Pham Bình Minh
rằng: “Cách tốt nhất để kiểm soát bất đồng trên biển (giữa Việt Nam và
Trung Quốc) là hợp tác khai thác trên biển.”
Lập
trường của Vương Nghị không mới mà đã thường xuyên được phía Trung Hoa
lập lại với Việt Nam mỗi khi có cuộc họp chính thức song phương, hay bên
lề các cuộc gặp gỡ Quốc tế. Sở dĩ Bắc Kinh muốn nhắc lại là muốn cho
phía Việt Nam hiểu rằng Hà Nội không có lựa chọn nào khác, khi xét về
tương quan lực lượng quân sự và sức mạnh kinh tế-chính trị của Trung Hoa
đối với Việt Nam.
NỢ TRUNG HOA BAO NHIÊU?
Nếu
đem yêu cầu Việt Nam “cùng hợp tác để khai thác trên biển” của Vương
Nghị áp dụng vào món nợ khổng lồ của Việt Nam đối với Bắc Kinh thì “qủa
đấm” của họ Vương dành cho ông Phạm Bình Minh không nhẹ chút nào.
Món
nợ tài chính này đã được chuyên gia Vũ Quang Việt, nguyên Vụ trưởng Vụ
Tài khoản Quốc gia thuộc Cục Thống kê Liên Hợp Quốc, tiết lộ trong bài
viết trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn, ngày 03/09/2018. Bài này sau đó được
đăng lại trên nhiều báo ở Việt Nam.
Ông
Việt viết: “Theo một nghiên cứu chi tiết về các khoản nợ của các nước
trong đó có Việt Nam với Trung Quốc, thì tổng số nợ của Việt Nam với
Trung Quốc (bao gồm cả Chính phủ, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp
tư) có thể đã lên tới 4 tỉ đô la Mỹ, chỉ có thể tính đến hết năm 2013 .
Số liệu trên cũng chưa thể tính trừ đi khoản nợ gốc đã trả.”
“Tuy
thế”, ông Việt viết tiếp, “nếu dựa vào số liệu nợ Trung Quốc là 4,1 tỉ
đô la năm 2013, tính ra bằng 6,3% tổng số nợ nước ngoài của Việt Nam (kể
cả nợ của doanh nghiệp) là 63,5 tỉ đô la vào năm 2013. Dựa vào cùng tỷ
lệ trên, và với số nợ nước ngoài hiện nay ước là 100 tỉ đô la Mỹ, có thể
ước nợ Trung Quốc vào năm 2018 đã trên 6 tỉ đô la. Ngân hàng Thế giới
tính số nợ nước ngoài của Việt Nam là 86,9 tỉ đô la vào cuối năm 2016.”
Vẫn
theo tính toán của ông Việt thì: “Số nợ Trung Quốc thật sự có thể lớn
hơn số trên, vì từ sau năm 2010, Bộ Tài chính chỉ theo dõi và công bố nợ
công tức là nợ của Chính phủ và nợ của doanh nghiệp do Nhà nước bảo
lãnh, theo định nghĩa của Việt Nam. Từ 2011, bộ đã chấm dứt công bố nợ
nước ngoài bao gồm cả nợ của doanh nghiệp tư nhân. Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam đã có bản hướng dẫn về nội dung quản lý nhà nước đối với vay và
trả nợ của doanh nghiệp (03/VBHN-NHNN, 12-7-2017). Như thế về nguyên
tắc, Ngân hàng Nhà nước nắm được thông tin nhưng không công bố.”
Với
đống nợ to bằng cái đình làng như thế thì liệu Việt Nam có khả năng
tránh được áp lực đòi cùng khai thác ở Biển Đông của chủ nợ không?
TRẢ LỜI HAY KHÔNG?
Đó
là lý do tại sao phía Việt Nam, qua lời người phát ngôn Lê Thị Thu Hằng
của Bộ Ngoại giao,đã trả lời giữa vời khi được báo chí chất vấn về yêu
cầu của Vương Nghị.
Bà
Hằng nói chiều ngày 20/09/2018:“Việt Nam hoan nghênh hợp tác giữa các
quốc gia, trong đó có hợp tác trên biển. Trên thực tế, Việt Nam đã có
hợp tác song phương và đa phương về biển với các quốc gia, trong đó có
Trung Quốc với nhiều hình thức khác nhau như nghiên cứu khoa học, bảo vệ
môi trường, phòng chống tội phạm trên biển, hoạt động kinh tế…
Chủ
trương của Việt Nam là hợp tác trên biển phải theo đúng các quy định và
chế định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, phù hợp
với quyền, lợi ích của Việt Nam và tôn trọng lợi ích của các bên liên
quan khác.” (Bản tin chính thức của Bộ Ngoại giao).
Câu
trả lời của Bà Hằng không bác thẳng tay yêu cầu của Vương Nghị mà ngụ ý
sự hợp tác, nếu có phải được thảo luận dựa trên Luật Biển năm 1982 của
Liên Hiệp Quốc, đòi hỏi các bên quan hệ phải tôn trọng quyền lợi và lập
trường về biển đảo của đôi bên.
Nói cách khác, phía Việt Nam đã ỡm ờ giữa “có” và “không” để mua thời gian với cáo già Trung Quốc.
Cũng
nên biết lập trường “gác tranh chấp để cùng khai thác” của Trung Hoa đã
phát ra lần đầu tiên từ cửa miệng Lãnh tụ Đặng Tiểu Bình năm 1979. Từ
đó đến nay, các thế hệ lãnh đạo Trung Hoa kế tiếp vẫn giữ nguyên như
thế.
Nhưng
nếu mắc bẫy Trung Hoa là chẳng khác nào bán thóc giống đi mà ăn. Bởi vì
trước hết, Trung Hoa không có chủ quyền thực tế ở Biển Đông mà chỉ tự
nhận các bãi đá, đảo và vùng nước chung quanh những vị trí này là của
Trung Hoa từ ngàn xưa.
Câu
nói ngang ngược của Tổng Bí thư đảng, Chủ tịch nhà nước Trung Hoa Tập
Cận Bình tại Tân Gia Ba (Singapore) ngày 07/11/2015 là bằng chứng tham
vọng của Bắc Kinh.
Họ
Tập nói tại Đại học Quốc gia Singapore:“Xin hãy để tôi nói rõ: những
hòn đảo trên Biển Đông là thuộc lãnh thổ Trung Quốc kể từ thời xa xưa .
Chính quyền Trung Quốc có nhiệm vụ phải bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và lợi
ích chính đáng của Trung Quốc”.
Ông
Tập rêu rao rằng “những hòn đảo của Trung Quốc” trên Biển Đông đang bị
các quốc gia láng giềng chiếm đóng. Ông nói: “Những hoạt động xây dựng
của Bắc Kinh trên Biển Đông là nhằm mục đích hòa bình.”
SUY NHƯỢC-PHỤC TÙNG
Lập
trường chủ quyền ở Biển Đông của Trung Hoa đã bước vào thời kỳ căng
thẳng và nguy hiểm nhất từ 30 năm qua, sau khi quân Trung Hoa tấn công
chiếm 7 bãi đá của Việt Nam ở Trường Sa từ năm 1988. Sau đó bồi đắp
thành đảo lớn kiên cố và quân sự hóa gồm Vành Khăn, Tư Nghĩa, Subi,
Gaven, Chữ Thập, Gạc Ma và Châu Viên.
Trung
Hoa đã đồn trú binh lính, xây bến cảng, sân bay và lập tuyến phòng thủ
Radar và xây một số Đài khí tượng trên 7 vị trí. Vì vậy, Việt Nam sẽ là
nạn nhân đầu tiên, nếu xẩy ra chiến tranh, vì sức mạnh quân sự không cân
bằng mặc dù Việt Nam đang kiểm soát tới 21 vị trí ở Trường Sa gồm:
Cụm Song Tử: Đảo Song Tử Tây, Đá Nam
Cụm Nam Yết: Đảo Nam Yết, Đảo Sơn Ca, Đá Lớn, Đá Núi Thị
Cụm Sinh Tồn: Đảo Sinh Tồn, Đảo Sinh Tồn Đông, Đá Cô Lin, Đá Len Đao
Cụm Trường Sa: Đảo Trường Sa, Đá Đông,Đá Lát, Đá Núi Le, Đảo Phan Vinh, Đá Tây, Đá Tiên Nữ,Đá Tốc Tan, Đảo Trường Sa Đông
Cụm Thám Hiểm: Đảo An Bang, Đá/Bãi Thuyền Chài
Một
bằng chứng suy nhược của phía Việt Nam Cộng sản là quân đội đã không
dám nghênh chiến với lính và tầu Trung Cộng mỗi khi chúng tấn công, bắn
phá vá cướp tài sản của ngư dân Việt Nam hành nghề ở vùng biển Hoàng Sa
(bị Trung Cộng chiếm từ tay Quân lực Việt Nam Cộng hòa tháng 1/1974) và ở
Trường Sa.
Ô
nhục hơn, phần lớn báo đài nhà nước CSVN không dám chỉ đích danh lính
và tầu Trung Cộng đã hành động sát nhân vô nhân đạo chống ngư phủ Việt
Nam mà chỉ dám gọi chúng là “tầu lạ” hay “tàu nước ngoài”.
Tại
Bộ Ngoại giao Việt Nam, mỗi khi Trung Cộng có động tác xác nhận chủ
quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa thì người phát ngôn chỉ biết nói đi nói
lại đến nhàm tai rằng: “Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng
lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế.”
DƯƠNG KHIẾT TRÌ-BIỂN ĐÔNG
Khẳng
định của Việt Nam, một lần nữa đã bị Dương Khiết Trì (Yang Jiechi),
Chánh văn phòng Uỷ ban công tác ngoại sự Trung ương đảng Cộng sản Trung
Quốc gạt đi trong cuộc họp báo ở Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 09/11/2018.
Họ
Dương và Bộ trưởng Quốc phòng Trung Hoa, Ngụy Phượng Hòa (Wei Fenghe)
đã đến Hoa Thịnh Đốn để họp thường niên với Ngoại trưởng Michael Pompeo
và Bộ trưởng Quốc phòng Jame Mattis.
Trả
lời câu hỏi về hoạt động của Trung Hoa tại Biển Dông, Dương Khiết Trì
nói: “China reaffirmed its principled position on this issue and pointed
out that China has indisputable sovereignty over islands in Nansha and
its adjacent waters. On its own territory, China is undertaking some
constructions to build civilian facilities and necessary defense
facilities. That is the right of preservations and self-defense that
international law has provided for sovereign state that has nothing to
do with militarization.” (Tài liệu Bộ Ngoại giao Mỹ)
Tạm
dịch: “Trung Quốc đã khẳng định lập trường chính thức về vấn đề này, và
muốn nói rõ rằng Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi trên các
đảo ở Trường Sa và vùng nước chung quanh. Trên phần lãnh thổ của mình,
Trung Quốc đã thực hiện công tác xây dựng một số cơ sở dân sự và quân sự
quốc phòng. Đây hoàn toàn phù hợp với quyền bảo vệ và tự vệ theo đúng
luật pháp quốc tế chứ không dính dáng gì đền điều gọi là quân sự hóa.”
Lời
tuyên bố mới nhất về Biển Đông của Dương Khiết Trì như gáo nước lạnh
tạt vào mặt lãnh đạo Cộng sản Việt Nam, vậy mà đảng và nhà nước, kể cả
báo đài sống nhờ tiền dân và Ban Tuyên giáo chuyên nghề tuyên truyền đã
không dám mở mồm bình phẩm hay phản ứng lấy nửa lời.
Là
người lãnh đạo cao nhất nước, Tổng Bí thư đảng, Chủ tịch nước Nguyễn
Phú Trọng có còn là người Việt Nam hay ông chưa biết Việt Nam đang chết
đuối ở Biển Đông?
Phạm Trần
(Tiếng Dân)
Không có nhận xét nào