Vài lời nói đầu: Đây không
phải là một bài tham luận về chương trình giáo dục của Đệ Nhất Việt Nam
Cộng Hoà. Công việc ấy phải để dành cho các vị Thạc Học và có nhiều
thời gian tra cứu khác. Đây chỉ là một vài ký ức và nhận định nông cạn
của một người may mắn được trải nghiệm việc học trong thời kỳ gói trọn
trong thời gian Đệ Nhất Cộng Hoà.
Trước đây, ông Mandella, nguyên Tổng Thống Nam Phi có nói rất thống thiết về giáo dục:
“Để
phá hủy bất kỳ quốc gia nào, không cần phải sử dụng đến bom nguyên tử,
hoặc tên lửa tầm xa. Chỉ cần hạ thấp chất lượng giáo dục, và cho phép
gian lận trong các kỳ thi của sinh viên. Điều này sẽ dẫn đến hậu quả:
Bệnh nhân chết dưới bàn tay của các bác sĩ của nền giáo dục đấy.
Nhân loại chết dưới bàn tay của các học giả tôn giáo của nền giáo dục đấy.
Công lý bị mất trong tay các thẩm phán của nền giáo dục đấy.
Sự sụp đổ của giáo dục là sự sụp đổ của một quốc gia.”
Như thế về mặt tích cực, những người lãnh đạo quốc gia phải nghĩ đến giáo dục trước hết cho dân chúng.
Hình minh họa |
Ôn
lại lịch sử Việt Nam trong thời Pháp thuộc, người Pháp trong những năm
đầu đặt nền đô hộ trên nước ta, họ rất khôn ngoan, vẫn để Triều Đình Huế
duy trì nền giáo dục cũ, với những khoa cử từ lâu chịu ảnh hưởng của
Trung Hoa. Sự yếu kém về khoa học và đời sống của nền giáo dục này, hiển
nhiên đã xảy ra ngay từ gốc của nó là Trung Hoa thua kém các nước Âu
châu và phải ký những hiệp ước bất bình đẳng. Những trí thức Trung Hoa
cũng như Việt Nam thấy rõ phải cải cách giáo dục, nếu muốn đừng bị lạc
hậu và yếu kém.
Những
nhà nho VN tuy thành đạt về khoa cử, nhưng vẫn ý thức: chính vì đường
lối giáo dục cũ đã đưa đến sự yếu kém và mất nước, nên như Phan Bội Châu
và Phan Châu Trinh đã phải đề ra mục tiêu giáo dục cho người dân là
nâng cao dân trí. Nhưng họ đã không thành công vì chính quyền Thực dân
lúc đó lại có ý định xoá bỏ dân trí và dân phong với một đường lối giáo
dục nhằm đào tạo những tên “nô bộc”: biết nói giỏi tiếng Tây và biết
vâng lời để gia nhập guồng máy cai trị của Pháp ở Đông Dương. Cho nên
những phong trào rất sáng suốt như “Duy Tân” hay “Đông Kinh Nghĩa Thục”,
dù đã học hỏi từ sự thành công “Duy tân” của Nhật Bản, cũng bị Pháp dẹp
bỏ với những biện pháp có tính cách khủng bố như: đày các nhà nho tham
gia nghĩa thục ra Côn Đảo, để không gây ảnh hưởng đến khối quần chúng.
Có
lẽ người Pháp cũng không ngờ, khi Pháp hoá nền giáo dục Việt Nam, thì
chính những tài liệu giáo dục như văn chương, lịch sử nước Pháp đã làm
cho những học sinh, sinh viên Việt Nam càng củng cố tinh thần quốc gia
và ý niệm tự do, nhân bản vốn cũng là tiêu chỉ giáo dục của Pháp. Người
Pháp không thể hiểu được một số trí thức VN được sang Pháp học, lại
không cày cục làm việc cho Pháp, mà lại làm những nghề tự do, để mưu cầu
độc lập cho nước nhà. Một sự thật hiển nhiên là trong thời Pháp thuộc,
người ta lại xây dựng được nền tảng của văn hoá Việt Nam với rất nhiều
tác phẩm đi tìm những tinh hoa văn hoá VN và dự phóng những nét mới về
văn hoá cho thời đại mới.
Hãy
lấy thí dụ về ngôn ngữ Việt Nam để thấy sự chuyển biến từ lối văn “biền
ngẫu” viết ra cốt để “chơi” sang lối văn mới với những tác phẩm của Tự
Lực Văn Đoàn và những nhà văn tự do khác. Lối văn lý luận văn học hoàn
toàn xa lạ với lối văn khoa cử của các nhà nho ở Thế kỷ 19 và còn dây
dưa sang những năm đầu của thế kỷ 20. Hãy xem những tác phẩm của Đào Duy
Anh, Trần Trọng Kim, Phan Khôi cùng một số rất lớn các người viết biên
khảo đã ảnh hưởng thế nào đến thế hệ sau khi nhu cầu một nền văn hoá dân
tộc là khẩn thiết trong khi về chính trị vẫn tranh đấu cho sự độc lập
hoàn toàn của quốc gia.
Thành
ra trong sự nô lệ hoá giáo dục của Pháp, người Việt đã biết nương theo
đó để mà củng cố tinh thần quốc gia cũng như văn hoá dân tộc.
Một
điều quan trong mà chúng ta học được của văn hoá Pháp là ý niệm quốc
gia. Trong chế độ Phong kiến ngày trước đã có hàng ngàn năm người dân
Việt vẫn được giáo dục “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” (Nước Nam là vua Nam
ở); hay: “một tấc đất cũng của vua Lê”, thì bây giờ quốc gia là nơi mà
mọi người dân sinh sống trên đấy, có cùng một ngôn ngữ và văn hoá.
Tất
cả môi trường đã được sửa soạn để khi nước nhà độc lập, dù là sự độc
lập “bất chiến tự nhiên thành” của chính phủ đầu tiên của Việt Nam là
Chính Phủ Trần Trọng Kim. Điều đáng ca ngợi của Chính phủ này là chương
trình giáo dục do Tổng Trưởng Giáo Dục lúc ấy là ông Hoàng Xuân Hãn, một
học giả tuy xuất thân ở những Đại Học Pháp, nhưng đã tạo một chương
trình hoàn thiện cho nước Việt Nam độc lập. Dù Chính Phủ Trần Trọng Kim
đã không thọ được một năm, nhưng nền tảng do chương trình giáo dục ấy đã
đặt vững để cho những nhà giáo dục đi sau có cơ sở hoàn thiện nền giáo
dục cho Đệ Nhất Cộng Hoà cũng như cả Đệ Nhị Cộng Hoà.
Người
ta có thể nói như Việt Cộng thường tuyên truyền Chính Phủ Trần Trọng
Kim là chính phủ bù nhìn của Nhật; nhưng có một điều chắc chắn và đáng
hãnh diện là chương trình Giáo Dục Hoàng Xuân Hãn không hề bị người Nhật
chi phối. Chương trình ấy đề cao và đưa tiếng Việt làm chuyển ngữ ở Đại
Học. Cái chương trình ấy đã tạo nên tinh thần độc lập cho người dân,
cho nên sau này dù người Pháp có trở lại Đông Dương, nhưng vẫn không thi
hành được chính sách giáo dục thời Thực dân ngày trước.
Cũng
phải nói một cách công bình rằng chính những người thành đạt ở hai nền
giáo dục cũ ấy đã góp công làm ra chương trình giáo dục của Việt Nam
Cộng Hòa (Thời ấy không gọi là Đệ Nhất Cộng Hòa. Chỉ từ khi ông Nguyễn
Văn Thiệu lên làm Tổng Thống VNCH nguời ta mới đặt ra Đệ Nhất và Đệ Nhị
Cộng Hoà.)
Tôi
hoàn toàn học Trung Học và Đại Học ở thời gian Đệ Nhất Cộng Hoà ấy.
Nhưng trong thời gian đi học, thành thật mà nói, không hiểu được triết
lý giáo dục của chương trình ấy. Sau này nhiều năm khi đã đi dạy học,
mới thực sự ý thức được tinh thần của nền giáo dục ấy: Ba tiêu chỉ của
nền giáo dục VNCH là Dân Tộc, Nhân Bản và Khai Phóng.
Phải
nói rõ rằng: không có một nền giáo dục nào mà dời xa dân tộc nếu muốn
dân tộc đó được độc lập và tiến bộ trong xu hướng canh tân của thế giới.
Người ta nói nhiều đến tinh thần dân tộc quá khích nó làm cho người dân
có mặc cảm coi dân tộc mình hơn hẳn những dân tộc khác, khiến cho không
biết đến những nhược điểm của mình để mà hãnh diện vô lối, bỏ qua rất
nhiều cơ hội để tiến bộ. Miền Nam VN không thích nói một cách mị dân:
“Nhân dân ta rất anh hùng” mà chỉ nói ta có nhiều tố chất để nếu được
một nền giáo dục tốt, sẽ không thua kém gì các dân tộc trong thế giới Tự
do đã may mắn được hưởng từ lâu một nền giáo dục tốt và tiên tiến.
Trong
hoàn cảnh chế độ Cộng Sản ở miền Bắc áp đặt một nền giáo dục nô dịch và
đề cao Đảng Cộng Sản, thì miền Nam phải phát huy một nền giáo dục,
không hẳn là trực tiếp đối đầu với Cộng Sản, mà là phải nương theo xu
hướng nhân bản của các chương trình giáo dục trong thế giới tự do. Nói
thế không phải như Việt cộng tuyên truyền rằng Việt Nam Cộng Hòa ôm
nguyên chương trình giáo dục của Pháp hay Mỹ với tinh thần nô lệ. Trí
thức miền Nam không bị chính trị chi phối, nhất là ở địa hạt giáo dục.
Trong thời gian học Trung Học và Đại Học, tôi đã chứng nghiệm điều đó.
Người ta có thể ca ngợi Ngô Tổng Thống ở nơi nào, chứ trong học đường,
nhận định của học sinh Đệ Nhị Cấp và sinh viên, thì Tổng Thống chỉ là
một chức vụ do Hiến pháp VNCH quy định. Và lời chúc “Ngô Tổng Thống muôn
năm” xem ra có chút gì khôi hài. Ngay cả chửi bới Cộng Sản cũng không
có trong học đường. Người ta biết được những tệ hại của Cộng Sản là do
báo chí, sách vở được tự do phát hành ngoài xã hội. Chính vì thế mà có
được những tên Việt Cộng về văn hoá nằm vùng kín đáo tuyên truyền cho
Cộng Sản như: Vũ Hạnh, Lý Chánh Trung.v.v
Vấn
đề tín ngưỡng, tôn giáo không có trong học đường. Cứ nghĩ mà xem: cuộc
Cách Mạng Dân Chủ của Pháp đã chủ trương: “Chính giáo phân ly”. Chương
trình giáo dục của VN do Hoàng Xuân Hãn ít nhiều chịu ảnh hưởng của tư
tưởng nhân bản và Tự do của Pháp, nên người học sinh rất thoải mái và
chỉ chuyên chú vào học vấn.. Cũng có những giờ giáo lý, nhưng là ở những
trường tư do Thiên Chúa giáo tổ chức như trường Tabert, Don Bosco,
những học sinh học ở trường này phần lớn là có đạo. Không ai bắt buộc họ
phải vào học những trường này vì vừa tốn tiền, vừa có những quy định
khe khắt. Nhưng khi ra trường, họ là những người dễ dàng du học, hay vào
những phân khoa Đại Học giảng dạy bằng sinh ngữ Pháp. Việc học trường
Tây ở thời VNCH khác với thời kỳ đô hộ. Trong thời kỳ đô hộ, trường Tây
mở ra cho “con Tây” học. Những ngươi Việt vào làng Tây hay thuộc các gia
đình thân thiết với Tây mới được học. Trong các trường này, họ dạy
chương trình của chính quốc, nên khi tốt nghiệp, học sinh dễ dàng theo
học các trường Đại Học bên Pháp.
Chương
trình giáo dục thời VNCH có tham khảo chương trình Hoàng Xuân Hãn, nên
ngoài vấn đề Pháp văn hay Anh văn được học như một sinh ngữ, còn các môn
khoa học, nhất là toán học đều theo tiêu chuẩn quốc tế. Tôi nhớ có
nhiều bạn vẫn lấy sách toán học bằng tiếng Pháp ra giải bài nhẹ nhàng.
Thậm chí có những người còn giải bài trong Tạp chí Toán học của Pháp
nữa.
Chương
trình học nhằm mục đích đào tạo con người toàn diện để sống trong xã
hội Dân chủ. Nên quan trọng nhất, không dung dưỡng sự nói dối, thiên vị
hay lừa đảo trong giáo dục. Có lẽ ở thời gian ấy vẫn còn nặng nghĩa
“quân, sư, phụ”; nhưng ở trường Tây thì thầy trò đối sử với nhau dân chủ
hơn. Còn ở trường ta thì học trò kính trọng thầy gần như là một quán
tính. Thầy thì ai cũng muốn đào tạo học trò mình nên người ngay thẳng,
có trách nhiệm và khả năng để sống tốt trong xã hội. Có lẽ, thâm ý của
những người soạn chương trình giáo dục là muốn đào tạo một mẫu người gọi
là gentleman. Có lẽ nên dịch là “người tử tế” để đối chọi với người
Cộng sản gọi là “con người xã hội chủ nghĩa” với tất cả những tính xấu
như đểu cáng, lưu manh, gian dối, hung bạo, tàn nhẫn.
Thực
ra trong thời gian đi học ở Trung Học và Đại Học, tôi không có những
nhận định triết lý về nền giáo dục mình đã thừa hưởng, nhưng chỉ thấy
những người trong độ tuổi chúng tôi, rất ham mê học. Cho đến khi may mắn
tốt nghiệp, đi làm việc mới thấy được xã hội kính trọng và yêu mến mình
là vì cá tính công bằng, ngay thẳng, trách nhiệm và nhất là tôn trọng
lương tâm nghề nghiệp. Sự ngay thẳng thể hiện trong giới giáo dục là
không có giáo chức nào dạy học trò những điều bậy bạ về đạo đức và sai
trái về kiến thức. Kiến thức mà truyền đạt sai lầm là làm hại ngay cả
một thế hệ học trò. Do đấy mà sự hiểu biết về xã hội và khoa học không
bị lạc hậu so với quốc tế. Mình chỉ kém sinh viên ngoại quốc ở sinh ngữ
vì là tiếng mẹ đẻ của họ. Sinh viên ngoại quốc nào cũng sẽ khổ sở về vấn
đề ngôn ngữ khi học “Cử nhân Văn chương VN” (Đây là nói cho vui). Một
thí dụ điển hình, thế hệ chúng tôi sau ngày Quốc nạn 30/4/1975, chạy nạn
sang được ngoại quốc, không gặp khó khăn gì lắm khi đi học trở lại, để
gia nhập dòng chính (Mainstream) văn hoá nước mà mình định cư.
Thí
dụ cụ thể nhất là chúng ta hôm nay còn ngồi đây nói về (có thể gọi là
ánh hào quang của một thời lịch sử) có lẽ cũng là nhờ cái chương trình
giáo dục ấy, đã dạy cho chúng ta hãnh diện và kính trọng lịch sử VN, một
dân tộc luôn luôn phải đấu tranh từ thuở dựng nước, trước sự hung hăng
của Tàu phương Bắc, lúc nào cũng muốn đồng hoá VN. Cái nền giáo dục ấy
dạy những câu thơ làm chúng ta ngậm ngùi và xác quyết tin tưởng vào dân
tộc trường tồn:
Cột đồng Đông Hán tìm đâu thấy,
Chỉ thấy Tây Hồ bóng nuớc gương
Bây
giờ thì nền giáo dục ấy đã chết rồi. Nhưng, như Nguyễn Du đã nói: “Thác
là thể phách, còn là tinh anh”. Một mai nước nhà được quang phục, nó
phải sống lại để xây dựng cho nền văn hoá Việt Nam có đủ những tiêu chỉ:
Dân tộc, Nhân Bản và Khai phóng.
Lê Văn Ngọc
(Tống Phước Hiệp)
Không có nhận xét nào