Dự thảo lần 2 của Nghị định “Quy định
chi tiết một số điều của Luật An ninh mạng” mà Bộ Công an vừa đưa ra
lấy ý kiến, cho thấy tất cả những hành vi có “tác động đến sự tồn tại
của chế độ và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” đều phạm vào
an ninh quốc gia. [http://bit.ly/2AK49lo]
Công đoàn độc lập có đe dọa sự tồn vong của chế độ? |
Điều
này hàm ý đe dọa rằng mọi ý kiến ‘bàn ra – tán vào’ dính líu tới sự
lãnh đạo toàn diện của đảng cộng sản Việt Nam, có thể bị chụp chiếc mũ
‘an ninh quốc gia’. Và điều đó cho thấy các vấn đề liên quan đến thành
lập những tổ chức công đoàn độc lập nêu ở bài viết “Vì sao đảng cộng sản
Việt Nam không quá ngán ngại công đoàn độc lập?” đăng trên Việt Nam
Thời báo
[http://www.vietnamthoibao.org/2018/11/vntb-vi-sao-ang-cong-san-viet-nam-khong.html],
có thể bị giá họa là “tác động đến sự tồn tại của chế độ và Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, nên sẽ trong ‘tầm ngắm’ của Luật An
ninh mạng (!?).
Cần chấm dứt “đảng hóa” các tổ chức xã hội dân sự
Nói
một cách ví von, cần loại bỏ “căn cước đảng” trong vấn đề nhân sự, bao
gồm cả nhân sự các tổ chức công đoàn độc lập hình thành ở tương lai.
Chuyện ngừng “đảng hóa” các tổ chức dân sự phải được thể hiện bằng việc
chấm dứt những quy định mang tính ràng buộc về ‘phát triển đảng viên’
trong các hội, đoàn xã hội dân sự.
Lâu
nay, hầu như mọi hiệp hội nghề nghiệp xã hội đều có sự quản lý trực
tiếp của đảng như Đoàn Luật sư, các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội xuất
khẩu, thậm chí kể cả Hội Sinh viên hay Hội Bảo vệ Quyền lợi Người tiêu
dùng.
Thế
nhưng để làm được chuyện loại bỏ “căn cước đảng”, cần đến sự bình đẳng
trong quyền công dân về chính trị đã ghi ở Điều 14.1, Hiến pháp 2013. Có
nghĩa một chủ tịch công đoàn độc lập không là đảng viên, vẫn ngang bằng
quyền lợi chính trị với chủ tịch công đoàn thuộc Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam, tạm gọi là công đoàn quốc doanh.
Nghiệp đoàn không phải là ‘cơ sở’ của công đoàn
Trong
cách hiểu và vận hành lâu nay của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, thì
“Nghiệp đoàn” là tổ chức cơ sở cấp dưới của Công đoàn; nơi tập hợp
những người lao động tự do hợp pháp cùng ngành, nghề, được thành lập
theo địa bàn hoặc theo đơn vị lao động có 10 đoàn viên trở lên, và được
công đoàn cấp trên là Liên đoàn lao động cấp huyện, hoặc công đoàn ngành
địa phương trực tiếp quyết định thành lập (hoặc giải thể) và chỉ đạo
hoạt động.
Tuy
nhiên theo cách hiểu chung ở các quốc gia, thì “nghiệp đoàn” là các
đoàn thể, tổ chức, được hình thành liên quan đến chuyên môn, nghề
nghiệp, thương mại, và các hoạt động lao động của những người thường là
cùng chung một nghề nghiệp; hoạt động vì quyền lợi người lao động theo
đúng quy định pháp luật, chứ không phụ thuộc vào sự chỉ đạo hoạt động
của cấp trên, đảng phái nào hết.
Nghiệp đoàn: nhìn từ Nhật, Úc, Singapore
Chính
cách hiểu như vừa nói ở phần trên nên tại Nhật Bản (Nhật là thành viên
của CPTPP), thi thoảng truyền thông vẫn công bố danh sách những “Nghiệp
đoàn đen”, theo nghĩa các nghiệp đoàn này o ép người lao động bằng mọi
cách nhằm phục vụ lợi ích của chủ doanh nghiệp.
Ở
Úc (cũng là thành viên CPTPP), các tổ chức nghiệp đoàn ở doanh nghiệp
sẽ tập họp lại chung thành Hội đồng các Nghiệp đoàn Thương mại Úc –
ACTU. Hội đồng này sẽ gắn bó chặt chẽ về các quyền lợi cho người lao
động, bao gồm cả yêu cầu tăng lương với Ủy ban Việc làm Công bằng [Fair
Work Commission,https://www.fairwork.gov.au/].
Tương
tự, Singapore (thành viên CPTPP) có tổ chức mang tên (tạm dịch) Liên
minh quốc gia các tổ chức nghiệp đoàn [Singapore National Trades Union
Congress- SNTUC; https://www.ntuc.org.sg/wps/portal/up2/home/]. SNTUC
vận hành không chịu sự phụ thuộc vào Đảng Hành động Nhân dân, hay Đảng
Công nhân (hai chính đảng chủ yếu của Singapore).
Triết
lý phát triển của SNTUC là để đạt được sự tăng trưởng kinh tế và tạo ra
nhiều cơ hội việc làm, cần có sự hợp tác và hình thành mối quan hệ giữa
quản lý và lao động một cách chặt chẽ để tạo ra môi trường làm ăn thông
thoáng.
Singapore
đã thành lập các thiết chế mang tính chất ba bên quan trọng, là Tòa án
trọng tài lao động (Industrial Arbitration Court), Uỷ ban năng suất quốc
gia (National Productivity Board), và Hội đồng quốc gia về tiền lương
(National Wages Council).
Các
cơ quan này có chức năng giải quyết, xây dựng và thực hiện các chính
sách được xem xét theo quan điểm và sự quan tâm của ba bên. Trên cơ sở
sự tham gia và nhất trí của ba bên, các biện pháp và chính sách được
hình thành bởi những bên liên quan sẽ nhận được sự chấp nhận cao hơn và
như vậy có thể được thực hiện nhanh chóng và hiệu quả hơn. SNTUC góp
phần thực thi những điều đó cho lợi ích của cả người lao động và chủ
doanh nghiệp.
Nếu chưa có ‘dân chủ thực thụ’ thì không thể có công đoàn độc lập
Để
tránh bị chụp mũ ‘diễn biến hòa bình’, trước tiên cần luật hóa về “sự
lãnh đạo toàn diện của đảng cộng sản” đối với Nhà nước và xã hội như quy
định tại Điều 4.1, Hiến pháp. Nếu vẫn tiếp tục chưa có luật về hoạt
động của đảng chính trị, coi như đây là một ‘quyền treo’ của đảng cộng
sản đối với nhiệm vụ ‘lãnh đạo toàn diện’.
Do
đó, nếu việc thành lập các công đoàn độc lập có ít nhiều đi ngược lại
với Nghị quyết đảng, thì điều đó không thể gọi là ‘tự chuyển hóa’, ‘tự
diễn biến’, mà cần tìm hiểu làm rõ xem những việc ‘đi ngược’ ấy đã vi
phạm cụ thể những điều luật nào trong hệ thống văn bản pháp quy hiện
hành. Nếu tòa án xác định là không vi phạm vào điều hạn chế nào của luật
pháp, thì hoạt động của những tổ chức công đoàn độc lập đó được quyền
hoạt động, và được bảo hộ bởi những điều được nêu trong CPTPP.
Công
bằng nhìn nhận, các nội dung như vừa nêu còn là sự thể hiện của sự tôn
trọng vào đảng cầm quyền. Bởi với quy trình “quốc hữu hóa” những tổ chức
đáng lẽ phải được tự thân vận hành và phát triển, cũng tương tự như quá
trình tập trung và quốc hữu hóa kinh tế trước đây, làm mất đi tính sáng
tạo và trách nhiệm xã hội vốn có của chúng. Cần trả lại chức năng là tổ
chức xã hội dân sự của những hội đoàn, trong đó có tổ chức công đoàn,
nghiệp đoàn.
Tổ
chức công đoàn, dù tên gọi nào, ‘độc lập’, hay ‘quốc doanh’, thì đều
cần hướng đến làm quen với một mô hình dân chủ thực thụ. Việc này đồng
thời giúp nhà nước tận dụng được những ý kiến cải cách, tạo không gian
chính trị nơi mà hiệu quả và khả năng hoạt động, bảo vệ công dân của các
tổ chức dân sự được đặt lên hàng đầu sẽ quyết định sự thành công của tổ
chức đó.
Cả CPTPP và EVFTA (Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU) đều có chung yêu cầu ‘dân chủ thực thụ’ đối với Việt Nam.
Thảo Vy
(VNTB)
Không có nhận xét nào