Khi con số vay nợ nước ngoài của Việt
Nam - bao gồm nợ chính phủ, nợ do chính phủ bảo lãnh và nợ của các
doanh nghiệp - đã vọt lên ngang bằng với toàn bộ GDP một năm, tức hơn
200 tỷ USD, đã quá muộn để Bộ Chính trị và hai cơ quan được đảng cầm tay
chỉ việc - Quốc hội cùng Chính phủ - ra tay ‘siết chặt bảo lãnh cho
vay’.
Hình minh họa |
Ai sẽ trả nợ cho nợ nước ngoài của doanh nghiệp?
Kỳ
họp quốc hội tháng 10 - 11 năm 2018 đã một lần nữa, trong nhiều lần kể
từ sau thời ‘ăn ốc’ của chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, cuống cuồng tìm cách
chạy làng khỏi nạn ‘đổ vỏ’ bằng chủ trương được ‘gật toàn diện’ ở các
cấp trung ương nhưng chưa hề được thông não bởi các tập đoàn kinh tế nhà
nước: siết bảo lãnh cho vay.
Vào
năm 2017, chính phủ của thủ tướng ‘đổ vỏ’ Nguyễn Xuân Phúc đã phải đề
ra hạn ngạch bảo lãnh cho vay chỉ 1 tỷ USD - con số thấp nhất trong
nhiều năm gần đây. Nhưng sang năm 2018, hạn ngạch này thậm chí không còn
tồn tại.
“Doanh
nghiệp nhà nước vay nước ngoài tăng vọt, ai sẽ trả nợ?”- giới chuyên
gia, báo chí và cả quan chức cùng hốt hoảng kêu lên. “Nếu các doanh
nghiệp này là doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp nhà nước chiếm cổ phần
chi phối không có khả năng trả nợ thì nợ này ai trả, bởi đây đều là các
doanh nghiệp nhà nước?”.
Trả
lời câu hỏi trên, Bộ trưởng Bộ Thắt Cổ (một tục danh mà dân gian đặt
cho Bộ Tài chính - địa chỉ chính yếu ‘kiến tạo’ vô số sắc thuế và đè đầu
dân để siết thuế nhằm cứu vãn cho ngân sách đảng sắp vào hồi rỗng ruột
và cho cả tỷ lệ chi thường xuyên cho bộ máy gần 3 triệu công chức viên
chức chiếm hơn 70% tổng chi ngân sách) - Đinh Tiến Dũng - đã phải thừa
nhận đúng là nợ nước ngoài tự vay tự trả của doanh nghiệp đang có xu
hướng tăng nhanh trong những năm gần đây: năm 2016 tăng 25,7% so với
2015; năm 2017 tăng 39,6% so với 2016. Nếu năm 2015, nợ nước ngoài của
quốc gia là 42% thì đến cuối năm 2018 đã tăng lên mức 49,7%, sát với
ngưỡng 50%.
“Riêng năm 2017, nợ nước ngoài tự vay, tự trả của doanh nghiệp tăng tới 42%,
trong
đó có khoản vay của công ty Việt Nam Beverage trị giá 4,8 tỉ USD để mua
cổ phần của Sabeco, chúng ta lại cộng vào nợ nước ngoài quốc gia” - cho
đến giờ Đinh Tiến Dũng mới thừa nhận và tiết lộ ‘bí mật’.
Nhưng
ông Dũng lại cho rằng nợ nước ngoài của doanh nghiệp mới là nguyên nhân
chính dẫn đến gia tăng nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP, trong khi
không thừa nhận nợ của chính phủ, mà đứng đằng sau là ‘đảng ta’, cũng
cống hiến một phần không nhỏ vào gánh nặng nợ nước ngoài, nợ công quốc
gia và khiến dân Việt sẽ không biết phải tính bao nhiêu đời con cháu mới
trả xong.
Vậy làm thế nào để trả núi nợ nước ngoài của khối doanh nghiệp, chưa tính đến nợ nước ngoài của chính phủ?
“Chính
phủ đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước chủ trì nghiên cứu đề xuất các giải
pháp nhằm kiểm soát chặt chẽ hoạt động vay nước ngoài theo phương thức
tự vay, tự trả của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng; hạn chế tối đa cấp
bảo lãnh Chính phủ cho các khoản vay mới. Chính phủ cũng sẽ không bảo
lãnh cho doanh nghiệp để vay vốn nước ngoài và không sử dụng nguồn Chính
phủ vay về để cho doanh nghiệp vay lại; không sử dụng ngân sách nhà
nước để cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, xử lý nợ xấu của ngân hàng và
cấp vốn điều lệ cho các tổ chức tín dụng thương mại” - Bộ trưởng tài
chính Đinh Tiến Dũng ‘kiến tạo’ giải pháp.
Còn
trước câu hỏi “nếu doanh nghiệp, tổ chức tín dụng vay không trả được
thì ai sẽ trả nợ”, ông Dũng trả lời gọn lỏn: người vay sẽ là người trả.
Theo
đó, Nghị quyết của Bộ Chính trị và của Quốc hội là không dùng ngân sách
để tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước; đồng thời, theo quy định hiện nay,
nợ nước ngoài của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, tổ chức
tín dụng theo cơ chế tự vay tự trả do bên vay có trách nhiệm tích lũy để
trả nợ…
Hết dám bảo lãnh cho vay!
Cần
nhắc lại, Chương trình quản lý nợ trung hạn giai đoạn 2016-2018 với mục
tiêu nợ công (bao gồm nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ
chính quyền địa phương) được Thủ tướng Phúc phê duyệt vào cuối tháng
4/2017 đã tạm dừng toàn bộ việc cấp mới bảo lãnh Chính phủ cho các khoản
vay trong và ngoài nước. Điều đó có nghĩa là Chính phủ sẽ không còn
chịu trách nhiệm gì về những khoản nợ vay của các doanh nghiệp, đặc biệt
là doanh nghiệp nhà nước, cho dù là vay từ các ngân hàng thương mại cổ
phần trong nước.
Trước
đó vào đầu tháng 3/2017, Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại (Bộ Tài
Chính) đã phát ra thông tin Chính phủ chỉ bảo lãnh vay 1 tỷ USD cho
doanh nghiệp trong năm 2017.
Mức
bảo lãnh chỉ có 1 tỷ USD trên là giảm mạnh so với những năm trước (năm
2015 là 2,5 tỉ USD và 2016 là 1,5 tỉ USD), và giảm rất mạnh so với mức
6,6 tỷ USD của năm 2014.
Nhưng
cho đến nay, có vẻ ngay cả con số 1 tỷ USD bảo lãnh cho năm 2017 cũng
không còn nữa. Vào lúc này, Chính phủ và Bộ tài chính chỉ còn biết cắm
đầu trả nợ.
Những
năm trước, hiện tượng nhiều tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước vay nợ
tràn lan, đã cho thấy tâm lý vay là cực kỳ vô trách nhiệm. Và thậm chí
một số doanh nghiệp còn có biểu hiện “xù nợ” khi làm ăn lỗ lã.
Có
đến ít nhất 30% số tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước đã rơi vào vòng lỗ
lã, và đối mặt với nguy cơ phá sản kể từ năm 2008, khi kinh tế Việt Nam
bắt đầu rơi vào giai đoạn suy thoái. Con số cập nhật nhất vào đầu năm
2017 là từ một nhà nghiên cứu độc lập là Tiến sĩ Vũ Quang Việt - cựu vụ
trưởng vụ Thống kê Liên hiệp quốc - ngay trên một tờ báo nhà nước là
Thời báo Kinh tế Sài Gòn, cho biết các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước
đang gánh một khoản nợ công lên đến 231 tỷ USD - vượt hơn rất nhiều số
“dự tính” khoảng 25 tỷ USD do một số cơ quan nghiên cứu của chính quyền
Việt Nam đưa ra vào thời điểm đó.
Chỉ
riêng năm 2016, một số dự án “khủng” như Dự án Đường sắt cao tốc Bắc
Nam (ước toán đầu tư đến hơn 50 tỷ USD), Dự án Đường bộ cao tốc Bắc -
Nam (hơn 10 tỷ USD), Dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận (20 tỷ USD) đã bị
Chính phủ và Quốc hội “dũng cảm” đình hoãn vô thời hạn, nhưng ai cũng
hiểu lý do thực chất là… hết tiền. Ngay cả dự án xây dựng sân bay Long
Thành có ước toán đầu tư đến 15 tỷ USD (khoảng 60- 80% là vay ODA) cũng
chưa biết làm cách nào để “xoay” ra tiền…
Nhưng
nhiều doanh nghiệp và tập đoàn nhà nước - vốn đã quen ‘ăn’, không thể
nhịn và do đó vẫn tiếp tục tống ra các yêu cầu cần được bão lãnh vay đối
với chính phủ.
Vào
năm 2017, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) đã phát ra một đề nghị hoàn
toàn mất “thiên thời”: muốn được Chính phủ bảo lãnh vay trong khi chính
giới quan chức lãnh đạo của PVN đang lũ lượt tra tay vào còng.
Những
đề nghị bảo lãnh trên vẫn được PVN nêu ra như một não trạng cùng thói
quen không mấy thay đổi dù “triều đại Nguyễn Tấn Dũng” đã trôi qua từ
khá lâu. Trong giai đoạn 2011-2015 của “triều đại” này, chính phủ Nguyễn
Tấn Dũng đã cấp bảo lãnh vay trong và ngoài nước cho 35 chương trình dự
án với tổng số vốn khoảng 15,6 tỉ USD, trong đó vay nước ngoài lên đến
14 tỉ USD.
Một nửa nợ sẽ đáo hạn trong 3 năm tới!
Khách
quan mà xét, Nguyễn Xuân Phúc lại là đời thủ tướng “cực hình” nhất
trong lịch sử tồn tại của đảng Cộng sản Việt Nam. Trả nợ nhiều nhất,
kinh tế be bét nhất, xã hội hỗn tạp nhất, chính trị “tan nát” nhất…
Nhưng phải sau nửa năm kế thừa chức thủ tướng từ Nguyễn Tấn Dũng, ông
Phúc mới nhận ra được cảnh nạn đó để chính ông phải than “Nợ công nếu
tính đủ thì đã vượt trần” và cảnh báo về nguy cơ “sụp đổ tài khóa quốc
gia”.
Còn
bây giờ, hẳn nhiên ông Phúc không hề mong muốn mình phải trở thành nạn
nhân “đổ vỏ” cho quá nhiều hậu quả gầy dựng bởi đời thủ tướng trước.
Trong
bối cảnh giật gấu vá vai như thế, Ngân hàng thế giới lại đưa ra một
cảnh báo giật mình: trong 3 năm tới, có đến 50% nợ trong nước của Chính
phủ sẽ đáo hạn, tức chính phủ này phải đối mặt với nguy cơ rất lớn là
không biết lấy đâu ra tiền để trả nợ, trừ việc… in tiền ồ ạt.
Phạm Chí Dũng
(Blog VOA)
Không có nhận xét nào