Vào mùa xuân năm 2018 đã xảy đến thêm
một nguy cơ mà rất có thể sẽ trở thành nỗi nguy biến cho chính thể độc
đảng ở Việt Nam: “deadline” thực sự cho trữ lượng dầu khai thác ở Việt
Nam chỉ còn khoảng 3 năm nữa, tức đến năm 2021 - trùng với kỳ đại hội
đảng lần thứ 13, nếu còn có đại hội này.
Giàn khai thác của PetroVietnam tại mỏ Bạch Hổ. Hình minh họa. (Ảnh: PVN) |
2025 hết dầu đang khai thác!
Và
khi mùa xuân ủ rũ của năm 2019 sắp nhoài đến, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam
(PVN) đã phải lần đầu tiên thừa nhận một sự thật mà bấy lâu nay tập
đoàn này và đảng chỉ muốn che giấu càng nhiều càng tốt: sản lượng dầu
tại rất nhiều giếng đang suy giảm tự nhiên do khai thác đã quá lâu. Cộng
vào đó là trữ lượng gia tăng quá thấp khiến từ nay đến năm 2025, sản
lượng khai thác dầu sẽ giảm đều đặn mỗi năm 10% - tương đương với hơn 2
triệu tấn.
Mức gia giảm đã được lên kế hoạch gia tốc lùi một cách chắc chắn trên có ý nghĩa gì?
‘Suy
giảm tự nhiên’ chỉ là một cách nói, hoặc chính xác hơn là một lối phủ
nhận trách nhiệm đối với nạn khai thác phá vỡ kế hoạch trong nhiều năm
trước.
Vào
năm 2017, sản lượng khai thác quy dầu của PVN lên tới 25 triệu tấn.
Nhưng với đà ‘suy giảm tự nhiên’ và với mức giảm bắt buộc hơn 2 triệu
tấn/năm, đến năm 2025 sản lượng khai thác quy dầu sẽ cao lắm là 10 triệu
tấn/năm. Còn nếu trong giai đoạn 2019 - 2015 mà PVN phải chịu sức ép
quá mạnh từ Chính phủ và Bộ Chính trị đảng để phải giữ nguyên hoặc thậm
chí gia tăng sản lượng khai thác dầu khí nhằm bù đắp cho một nền ngân
sách mau chóng cạn kiệt, đặc biệt là gần như cạn hoàn toàn các nguồn
ngoại tệ dùng để trả nợ nước ngoài và chi xài cho công tác ăn tiêu trong
đảng, đến năm 2025 PVN sẽ có thể chẳng còn dầu để khai thác nữa.
Những
thông tin trên là chuỗi tiếp nối logic với một thông tin từ ông Từ
Thành Nghĩa - Tổng giám đốc Vietsovpetro - vào đầu tháng 2/2018 về “Móng
mỏ Bạch Hổ còn quanh quẩn 10 triệu tấn, tối đa chỉ khai thác được 4-5
năm nữa thôi”, tại Hội nghị tổng kết năm 2017 của PVN.
Điều
đó có nghĩa là ngay cả mỏ Bạch Hổ - cung cấp sản lượng lớn nhất, chiếm
hơn 60% sản lượng của PVN từ xưa đến nay - đã vào giai đoạn suy kiệt.
Đó
là chưa kể đến tình trạng sản lượng của một số mỏ dầu khí giảm dần và
không còn mang lại hiệu quả kinh tế cho nhà đầu tư. Trong thời gian qua
một số lô hợp đồng đã phải trả lại cho PVN do không còn hiệu quả kinh
tế, như Lô 46/13 – mỏ Sông Đốc và Lô 01&02/97 mỏ Thăng Long, Đông
Đô.
Vào
năm 2012 hoặc 2022 khi mỏ Bạch Hổ trở thành ‘mỏ chết’, PVN sẽ phải dựa
hoàn toàn vào 40% sản lượng còn lại, với điều kiện trữ lượng của những
mỏ dầu còn lại vẫn còn mà không suy kiệt hẳn như Bạch Hổ.
Trữ lượng mới chỉ chiếm 1/6 sản lượng đang khai thác!
Những
năm tới sẽ là một thách thức khủng khiếp: làm sao đảng và PVN tìm ra
được nguồn trữ lượng dầu khí mới ở Biển Đông để thay thế cho những mỏ
sắp biến thành dĩ vãng và để ngân sách của đảng lẫn đảng khỏi chết theo?
Ngay
trước mắt là một mất cân đối quá lớn đối với ‘khoa học khai thác dầu
khí’: năm 2017, sản lượng khai thác quy dầu của PVN lên tới 25 triệu
tấn, nhưng phần tìm kiếm thăm dò gia tăng trữ lượng chỉ là 4 triệu tấn,
tức trữ lượng mới chỉ chiếm 1/6 sản lượng đang khai thác. Nếu tình trạng
mất cân đối giữa tìm kiếm thăm dò gia tăng trữ lượng và khai thác vẫn
tiếp diễn như hiện nay thì chỉ vài năm nữa, sản lượng khai thác dầu khí
của PVN sẽ chỉ còn 1/3 sản lượng so với hiện thời.
Vào
đầu năm 2017, một báo cáo của PVN đã thừa nhận rằng gia tăng trữ lượng
dầu khí năm 2017 đạt thấp hơn nhiều so với mục tiêu chiến lược đề ra:
mục tiêu đề ra trong nước là 20-30 triệu tấn/năm và ở nước ngoài là 8-12
triệu tấn/năm (tổng cộng là 28-42 triệu tấn/năm) nhưng trong hai năm
2016 và 2017 PVN đều không hoàn thành khi đạt thấp hơn nhiều (năm 2016
đạt 16,66 triệu tấn quy dầu và năm 2017 đạt 4,0 triệu tấn quy dầu). Hầu
hết các mỏ đều đã khai thác trong thời gian dài và đang trong giai đoạn
cuối dẫn tới suy giảm sản lượng tự nhiên hàng năm từ 15% tới trên 30%.
2017
cũng là năm gia tăng trữ lượng dầu khí thấp nhất từ trước đến nay, chỉ
đạt 4 triệu tấn dầu, thấp nhất lịch sử. Một quan chức của PVN là Tổng
giám đốc Nguyễn Vũ Trường Sơn phải thừa nhận: “trước đây hàng năm, PVN
khoan 30-40 giếng thăm dò, chi phí tốn từ 2-2,5 tỷ USD, gia tăng được
35-40 triệu tấn quy dầu. Thế nhưng, từ 2015 trở lại đây, đầu tư của ta
và nước ngoài chỉ đâu đó 400-500 triệu USD cho tìm kiếm thăm dò, giảm 5
lần so với trước”.
Thông
tin trên rất dễ khiến giới chóp bu Việt Nam mất ngủ, cho dù họ đã thừa
biết thực trạng “thiếu ăn” đó, khi hầu hết các mỏ dầu ở Việt Nam đều đã
khai thác quá độ hoặc vô độ trong thời gian dài và hiện đang trong giai
đoạn cuối dẫn tới ‘suy giảm sản lượng tự nhiên’.
Phá sản ‘tầm nhìn đến năm 2030’
Hiện
thực cùng tương lai cạn dầu hết tiền trên cũng khiến phá sản luôn “tầm
nhìn đến năm 2030” của ngành dầu khí Việt Nam, đặc biệt dưới thời ‘đồng
chí ba X’ - Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Vào
năm 2010 - 2011, PVN và chính phủ của ông Dũng đã hết sức lạc quan khi
ước tính trữ lượng dầu của Việt Nam đủ để khai thác đến năm 2030, tức
hàm ý chế độ hỗn tạp giữa danh nghĩa cộng sản và thực chất chủ nghĩa tư
bản đỏ ở Việt Nam hoàn toàn có thể kéo dài sự tồn tại của nó đến ít nhất
năm 2030.
Nhưng
chỉ vài năm sau đó khi tốc độ khai thác được đẩy mạnh gấp đôi,
“deadline” cho trữ lượng dầu đã được chính Thủ tướng Dũng và các bộ
ngành liên quan gia giảm đến năm 2025. Tuổi thọ của chế độ cũng bởi thế
đã được rút ngắn 5 năm.
Tính
bất xứng đã thể hiện một cách thật ngọt ngào: nếu vào thời Nguyễn Tấn
Dũng, Tập đoàn PVN đã lao vào khai thác dầu khí vô tội vạ và có lúc đóng
góp tới gần 10% thu ngân sách, thì đến nay hàng năm số thu ngân sách từ
PVN chỉ chưa đầy 100 ngàn tỷ đồng/năm và chỉ chiếm khoảng 6% tổng thu
ngân sách.
Còn
bây giờ thì trừ đảng, chẳng còn ai nói đến ‘năm 2030’ nữa. Thậm chí
‘năm 2025’ cũng chỉ là một ước đoán có phần lạc quan tếu.
Trong hai năm trở lại đây, “deadline” mới đã được thiết lập: trữ lượng dầu chỉ còn đủ để khai thác trong 4 -5 năm.
Nhưng
“deadline” trên cũng chỉ mang ý nghĩa hết sức tương đối. 3 năm khai
thác tối đa là khoảng thời gian có thể dễ hình dung hơn. Tức PVN chỉ còn
có thể khai thác tương đối thoải mái trong ba năm 2019, 2020 và ‘chào
mừng đại hội đảng 13’ vào năm 2021, nếu quả thực còn có đại hội này.
Nhưng sau đó, không có gì bảo đảm cho ‘nguồn thu dầu khí bền vững’ đối với ngân sách đảng.
‘Thọ’ đến năm nào?
Với
tình trạng trữ lượng dầu cạn kiệt nhanh trong khi quá khó để tìm ra
nguồn trữ lượng mới, có thể hình dung là vào năm 2021, ngân sách chế độ
sẽ mất hẳn số thu 70.000 - 80.000 tỷ đồng từ PVN mà do đó sẽ ‘kiến tạo’
một lỗ thủng toang hoác không lấy gì bù trám được.
Tương
lai đen tối trên đang hiển hiện trong bối cảnh hiện thời các nguồn
ngoại tệ mạnh từ viện trợ không hoàn lại, viện trợ ODA và cả nguồn kiều
hối của ‘khúc ruột ngàn dặm’ đều khá bi đát. Từ năm 2014, chính thể Việt
Nam đã không còn nhận được nguồn vốn ODA đáng kể nào, còn từ năm 2018
đã không còn ODA ưu đãi. Trong khi đó, lượng kiều hối gửi về Việt Nam
vào năm 2017 và 2018 có thể sụt giảm đến phân nửa so với mức đỉnh 13,5
tỷ USD vào năm 2015…
Cùng
với ba tử huyệt nợ công quốc gia, nợ xấu ngân hàng và thâm thủng ngân
sách đang lộ ra ngày càng rõ, triển vọng trữ lượng dầu khí cạn kiệt chỉ
trong ít năm nữa hoàn toàn xứng đáng bồi thêm một điểm chết nữa mà có
thể rút ngắn đáng kể tuổi thọ của chế độ cầm quyền tại Việt Nam trước
thời điểm năm 2025.
Phạm Chí Dũng
(Blog VOA)
Không có nhận xét nào