Một
trong những vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất giữa người Việt với nhau
khi nói đến cuộc chiến Việt Nam trong giai đoạn từ 1954-1975 là về tính
chính danh của hai nhà nước ở hai miền Nam-Bắc Việt Nam.
Bản đồ chia cắt hai miền Việt Nam 1954-1975. Ảnh: National Geographic (không có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa). |
Hai
điều khó có thể phủ nhận là: cả hai miền đều có sự ủng hộ riêng từ cộng
đồng quốc tế, và kể từ 30/4/1975, Cộng hoà Miền Nam Việt Nam rồi tiếp
đến là Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã thừa kế hàng loạt quyền và
nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam Cộng hoà.
Hiệp
định Geneva 1954 nhấn mạnh việc tạm thời chia đôi nước Việt Nam tại vĩ
tuyến 17 không đồng nghĩa với việc thiết lập ranh giới lãnh thổ và chính
trị giữa hai miền Nam-Bắc. Chính phủ ở cả hai miền đều thể hiện rất rõ
ràng điều này tại các bản hiến pháp của họ trong giai đoạn 1954-1975.
Từ
thời điểm bắt đầu đàm phán Hiệp định Geneva 1954 cho đến khi chiến
tranh kết thúc, cả hai chính thể được thành lập trước đó tại mỗi miền
đều cho rằng chỉ duy nhất một mình họ là đủ tính chính danh để quản lý
cả đất nước. Cũng như, chỉ có họ là được quốc tế công nhận.
Thế
nhưng định nghĩa “quốc tế” của mỗi miền cũng không giống nhau. Khi ấy,
chính cộng đồng quốc tế cũng chia rẽ thành hai khối, chứ không riêng gì
đất nước Việt Nam.
Tháng
1, 1950, cùng với Trung Quốc và Liên Xô, các quốc gia cộng sản Đông Âu
đều công nhận tính chính danh của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH) đối
với lãnh thổ Việt Nam.
Cũng
vào đầu năm 1950, Liên hiệp Pháp công nhận quyền tự trị và nền độc lập
của Quốc gia Việt Nam (QGVN), tiền thân của Việt Nam Cộng hòa (VNCH),
dựa trên một số hiệp ước được ký kết trước đó giữa hai nước vào năm
1949.
Đến tháng 2, 1950, Anh, Hoa Kỳ và một số nước Tây phương đều công nhận QGVN là thể chế lãnh đạo của nước Việt Nam.
Sau
khi VNCH được thành lập vào năm 1955 và thay thế quyền lãnh đạo miền
Nam của QGVN, Hoa Kỳ và các đồng minh Tây phương tiếp tục công nhận tính
chính danh của VNCH. Đến năm 1966, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã thống kê là
có 60 quốc gia trên thế giới công nhận chính thể VNCH của Nam Việt Nam.
Một
số nước như Ấn Độ, Thuỵ Điển thì lại theo quy tắc không công nhận cả
hai. Tuy nhiên, đến năm 1969, Thuỵ Điển trở thành nước Tây phương đầu
tiên công nhận nhà nước VNDCCH của Bắc Việt Nam.
Việc
công nhận thể chế nào tại Việt Nam mới thật sự đại diện cho cả đất nước
vốn không hề ngã ngũ vào thời điểm Hiệp định Geneva 1954 được ký kết.
Ngược lại, cuộc giằng co này đã kéo dài đến hơn 20 năm sau.
Trong
giai đoạn 1954-1975, ngoài sự công nhận của các nước trên thế giới bị
chia rẽ theo hai cực cộng sản và tư bản trong thời kỳ chiến tranh Lạnh,
thì hai nhà nước Việt Nam còn được công nhận theo một số cách khác.
Cờ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Việt Nam Cộng hoà tại vĩ tuyến 17 trong thời kỳ chiến tranh. Ảnh: Tạp chí Life. |
Gia nhập Liên Hiệp Quốc
Trước
hết, VNCH đã từng xin tham gia vào LHQ từ đầu thập niên 1950. Sau khi
chiến tranh Việt Nam kết thúc, VNDCCH cũng nộp đơn làm thành viên. Tuy
nhiên, cả hai đều gặp phản đối từ thành viên thường trực của Hội đồng
Bảo an.
Chúng
ta không cảm thấy khó hiểu khi biết được Liên Xô đã từng phản đối VNCH
tham gia vào LHQ, và ngược lại thì Hoa Kỳ phản đối VNDCCH.
Cùng
vì những sự phản đối này mà việc đăng ký làm thành viên LHQ của hai
chính phủ Bắc-Nam Việt Nam đã khá lận đận trong vòng 20 năm.
Ngày
30/4/1975, chế độ VNCH bị thay thế bởi chính quyền của Chính phủ Cách
mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (CHMN), nhưng vẫn giữ vị thế
một nhà nước độc lập đối với VNDCCH tại miền Bắc. Điều này được thể hiện
rõ qua hai lá đơn xin tham gia LHQ riêng biệt của VNDCCH – Bắc Việt và
CHMN – Nam Việt vào năm 1975.
Đến
ngày 8/8/1975, Hội đồng Bảo an đã đồng thuận chấp nhận và đề cử với Đại
Hội đồng LHQ cho cả hai quốc gia VNDCCH – Bắc Việt lẫn CHMN – Nam Việt
được tham gia vào LHQ.
Việc
Hội đồng Bảo an đưa ra đề cử với cả hai đơn xin tham gia LHQ của hai
nhà nước Việt Nam vào tháng 8, 1975 càng làm rõ vấn đề là cả hai chính
thể đều được đối xử như nhau và đều được LHQ công nhận.
Sau
khi hai nhà nước VNDCCH và CHMN thống nhất và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam ra đời vào ngày 2/7/1976, thì Việt Nam mới trở thành một quốc
gia với một chính phủ duy nhất. Sau đó, CHXHCN Việt Nam đã chính thức
gia nhập LHQ vào tháng 9, 1977.
Tham gia với tư cách thành viên của các tổ chức Quốc tế
Có
lẽ việc VNCH và VNDCCH đều tham gia làm thành viên của Tổ chức Y tế Thế
giới (WHO) và Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) càng giúp chúng ta phân
biệt được Việt Nam đã từng có hai chính phủ và được đối đãi như hai quốc
gia riêng biệt.
Trước
hết, đây là các tổ chức quốc tế mà thành viên tham gia hầu hết phải là
các quốc gia có chủ quyền (sovereign states). Chúng ta có thể dùng Đài
Loan làm ví dụ để so sánh vì Đài Loan chưa bao giờ là thành viên của
WHO.
Thế nhưng, từ 17/5/1950, VNCH là thành viên của WHO, và là thành viên của WMO từ 1/4/1955.
Sau
khi VNCH sụp đổ vào ngày 30/4/1975, VNDCCH mới xin gia nhập hai tổ chức
này và trở thành thành viên của WMO ngày 7/8/1975, và của WHO vào ngày
22/10/1975. Điều này có nghĩa là tư cách thành viên của VNCH tại WHO và
WMO lúc đó không bị xoá bỏ cho dù chính thể VNCH không còn tồn tại nữa.
Sau
khi hai miền Nam Bắc đồng ý thống nhất và trở thành CHXHCN Việt Nam vào
tháng 7, 1976, chính phủ mới đã gửi thông báo đến hai tổ chức này trong
năm 1977 để yêu cầu cho phép CHXHCN Việt Nam tiếp nhận tư cách thành
viên của cả hai chính phủ Nam-Bắc Việt Nam trước đó.
Điều
này đồng nghĩa với việc trong thời gian trước năm 1977, đã có hai quốc
gia Việt Nam là thành viên của WHO và WMO được các tổ chức quốc tế này
công nhận.
Điểm
này được nhấn mạnh bởi ngày tham gia vào WHO của Việt Nam hiện nay là
ngày 17/5/1950. Đó là ngày mà VNCH tham gia vào WHO như đã nói ở trên,
và có nghĩa là tư cách tham gia WHO với danh nghĩa một quốc gia của VNCH
không hề bị ảnh hưởng bởi việc thống nhất đất nước vào năm 1976.
Ngoài
ra, CHXHCN Việt Nam còn tiếp tục thay thế tư cách thành viên của VNCH
với các tổ chức ILO, ITU, UPU, UNESCO, và IAEA. Đây là những tổ chức
quốc tế mà trước năm 1975, chỉ có VNCH tham gia làm thành viên.
CHXHCN Việt Nam tiếp tục tư cách thành viên của VNCH đối với các định chế tài chính quốc tế
Trước
tháng 4, 1975, chỉ có VNCH là thành viên của các định chế tài chính
quốc tế. Đó là Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), và
Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB).
Sau
khi được thành lập vào tháng 7, 1976, CHXHCN Việt Nam đã trình thư xin
thay thế (substitution) tư cách thành viên của VNCH tại các định chế tài
chính nói trên, chứ không phải là đơn xin gia nhập làm thành viên mới.
Cụ
thể là khi thay thế tư cách thành viên của VNCH với ADB, CHXHCN Việt
Nam đã tiếp quản 3.000 cổ phần của chính phủ VNCH tại ngân hàng này.
Đồng
thời, CHXHCN Việt Nam cũng tiếp tục được nhận tất cả các khoản vay mà
VNCH đã được ADB chấp thuận cho vay trong những năm trước đó. CHXHCN
Việt Nam cũng bảo đảm sẽ chịu trách nhiệm chi trả cho những khoản vay
này.
Vì
vậy, ngày gia nhập ADB của Việt Nam hiện nay là ngày 22/9/1966, là ngày
mà Quốc hội của chính phủ VNCH tại miền Nam đã phê chuẩn việc tham gia
ADB.
CHXHCN Việt Nam tiếp tục công nhận một số hiệp ước mà VNCH đã ký kết
Tương
tự như việc tiếp tục tư cách thành viên của VNCH tại một số tổ chức và
định chế tài chính quốc tế như đã nêu, CHXHCN Việt Nam còn tiếp tục công
nhận ít nhất hai hiệp ước quốc tế mà VNCH đã ký kết trước ngày
30/4/1975.
Ngày
16/12/1976, nhà nước CHXHCN Việt Nam đã đệ trình đơn phê chuẩn Công ước
Viễn thông Quốc tế 1973 (1973 International Telecommunication
Convention) mà chính phủ VNCH đã ký kết vào ngày 25/10/1974 tại Hội nghị
Málaga-Torremolinos nhưng chưa kịp phê chuẩn. Đơn đệ trình của CHXHCN
Việt Nam nêu rõ là việc phê chuẩn được dựa trên những ký kết mà VNCH đã
thực hiện trước đó.
Tương
tự, VNCH được công nhận tư cách thành viên của Liên minh Bưu chính Quốc
tế (UPU) từ năm 1951. Vào tháng 7/1974, chính phủ VNCH đã ký kết các
văn bản liên quan đến Các Quy chế chung (General Regulations) và Công
ước Liên minh Bưu chính Lausanne (Universal Postal Convention) của UPU
nhưng chưa kịp phê chuẩn. Ngày 27/10/1976, Quốc hội của CHXHCN Việt Nam
đã phê chuẩn các văn bản này và đệ trình lên tổ chức UPU với yêu cầu
được thừa kế (succession) tư cách của VNCH.
Ngoài
ra, vào ngày 4/7/1976, chỉ 2 ngày sau khi được thành lập, Bộ Ngoại giao
của nhà nước CHXHCN Việt Nam đã gửi công hàm đến chính phủ Thụy Sỹ và
tuyên bố khẳng định tiếp tục tham gia vào các hiệp ước của Công ước
Geneva 1949 (Geneva Conventions of 1949) mà hai chính phủ VNDCCH và VNCH
đã ký kết trước đó về các vấn đề bảo vệ nạn nhân chiến tranh.
***
Qua
những ví dụ kể trên chúng ta nhận thấy rằng, bằng nhiều hành động khác
nhau, cả hai chính phủ VNCH và VNDCCH đã khẳng định tư cách quốc gia của
mình trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam từ năm 1954-1975.
Tuy
nhà nước Việt Nam hiện nay chưa bao giờ chính thức công nhận chính thể
VNCH nhưng CHXHCN Việt Nam lại liên tục công nhận tư cách quốc gia của
VNCH một cách gián tiếp, qua việc thừa kế hoặc tiếp nhận tư cách thành
viên của VNCH tại các tổ chức và định chế tài chính quốc tế.
Ngày
nay, có lẽ đối với nhiều người Việt Nam, đặc biệt là những thế hệ sinh
ra và lớn lên sau năm 1975, tư cách quốc gia của VNDCCH tại miền Bắc
Việt Nam là việc không còn phải tranh cãi.
Còn
về chính thể QGVN – VNCH tại miền Nam, chúng ta có thể đọc lại những gì
mà Đại Hội đồng LHQ đã phát biểu khi đề cử QGVN tham gia LHQ trong
phiên họp năm 1952. Từ đó, chúng ta có thể phần nào hiểu thêm được một
quan điểm khác về sự tồn tại và tính chính danh của chính thể QGVN –
VNCH:
“Quan
điểm của Đại Hội đồng cho rằng (Quốc gia) Việt Nam là một nhà nước yêu
chuộng hòa bình đúng như định nghĩa của Điều 4 Hiến chương, đã thể hiện
nguyện ý cũng như có khả năng thực hiện các nghĩa vụ của Hiến chương, và
do đó nên được chấp thuận tham gia làm thành viên của Liên Hiệp Quốc.”
Quỳnh Vi
------------------------
Tài liệu tham khảo:
- State succession and membership in international organizations: Legal theories versus political pragmatism by Konrad G Bühler. Publisher: The Hague [u.a.]: Kluwer Law Internat., 2001.
- Paths to Peace: The UN Security Council and Its Presidency by Davidson Nicol. Publisher: Burlington: Elsevier Science, 2013.
- Taiwan’s UN Dilemma: To Be or Not To Be
- Foreign Relations of the United States, 1964-1968, Volume IV, Vietnam, 1966
- La représentation du Viet Nam dans les institutions specialisées by Joele Nguyen Duy-Tan. 12 AFDI 405 (1976), pp. 405-419.
- 30th World Health Assembly Resolutions and Decisions 1977
- Asian Development Bank and Vietnam Fact Sheet
- Tuyên bố của Đại Hội đồng LHQ tháng 12 năm 1952 về việc ủng hộ Quốc gia Việt Nam trở thành thành viên
(Tạp Chí Luật Khoa)
Không có nhận xét nào