Trời phú cho chúng sinh, mỗi người một cái mồm. Ngụ ý, cấp cho họ cái quyền được ăn và quyền được nói. Dưới bất cứ hình thức nào, các ông, đừng vì: “Nhất Đảng – nhì Trời” mà ngang nhiên tước đi của họ, cái quyền Tự do ngôn luận đó. Luật An ninh mạng, vì thế, nên hoãn vô thời hạn việc thi hành.
Chỉ ngày mai thôi, chắc chắn, Đảng của ông, Quốc hội của ông và phe nhóm của ông, sẽ đặt ông ngồi lên Cửu trùng đài. “Niềm ao ước bấy lâu, nay đã thỏa nỗi chờ mong”. Từ giờ phút này, khi du hí năm châu – bốn bể, ông sẽ chính thức vào vai Hoàng đế. Do đó, không cần Ngoại giao vận, cũng sẽ được bước chân lên tấm thảm đỏ, để vào nhà người ta từ cửa chính và đi lần nào, cũng sẽ được ngửi mùi thuốc súng của cả dàn cà- nông bắn chào mừng, lần ấy.
Dân đen chúng tôi, về lý thuyết, là chủ nhân của cái Đất nước này. Nhưng trái ngược hoàn toàn với các thể chế Dân chủ, chẳng ai trong chúng tôi có được cái quyền: Dùng lá phiếu của mình, để định đoạt cái ngôi báu đó. Thói đời, khi đã bất lực, người ta thường dễ buông xuôi. Riêng lần này, thì không. Trước ngày ông đăng quang, cả nước lên đồng. Tất cả, chia thành 2 chiến tuyến rõ rệt. Họ mặc sức đàm tiếu và ra sức mà đả phá lẫn nhau.
– Đầu tiên, là bọn bưng bô và lũ bồi bút. Chúng lấy ống đu đủ ra và giẫm đạp lên nhau, để giành quyền cắm nó vào đít chủ. Cắm được rồi, đứa nào cũng phồng mang – trợn mắt mà thổi. Trăm phần trăm bọn chúng, đứa nào cũng ca ngợi và xếp chủ của chúng, vào cái loại: Phi là “đấng nhân kiệt (!)” thì cũng xứng đáng là “bậc sĩ phu của Bắc Hà (!)”. Nhiều đứa táo tợn, còn trùm luôn cả 2 cái áo cũ rách ấy lên đầu chủ. Theo chúng, cả cuộc đời của chủ, không hề có một chút tì vết. Xứng đáng, xếp ngang hàng với ông Hồ và được Lịch sử trao cho sứ mạng “thế Thiên – hành Đạo (!)”. Đích cuối cùng của tất cả những luận điệu dở hơi ấy, chính là cái bánh vẽ vĩ đại, được thiết kế cho “thì tương lai”: “Đồng chí Nguyễn Phú Trọng sẽ đưa Đất nước vượt lên tầm cao mới (!)”
– Đối diện với thành phần bất hảo này, là các bác “xấu bụng”. Các bác ấy, trề môi:
Trăm voi, không được bát nước xuýt. Tài năng và đức độ của lão này, cứ lấy thực tế ra, mà bình. Chuyên nghề của lão ấy, là văn chương. Nhưng học xong rồi, “chữ thày, lại trả cho thày”. Công du Hoa Kỳ, y gặp người đồng cấp Joe Biden. Rắp tâm chơi xỏ y, tay này, giở ngón lẩy Kiều. Nghe xong, y liền ngậm hột thị, mặt ngắn tũn lại và dĩ nhiên, vô phương đối đáp. Ở chuyên ngành thứ 2, y là tổ sư của cái mớ lý luận hổ lốn về “xây dựng Đảng”. Học xong, được trao cái chức Tổng Bí thư, với quyền lực vô biên. Đã thế, lại không phải chịu trách nhiệm với bất cứ một ai và bất cứ một vấn đề gì.
Nào chỉ có thế, thời gian nhậm chức, còn vắt qua tận 2 khóa liền tù tì. Thừa thời gian, để thực thi mọi ý tưởng vĩ đại, nếu có. Donald Trump – Tổng thống của Hoa kỳ, có nằm mơ cũng không mong có được những điều kiện thuận tiện như thế. Ấy thế mà, chỉ với chưa đầy 2 năm, kể từ khi cầm quyền, tay này đã khuynh đảo cả thế giới. Âm bản của Trump, là Tổng Trọng. Tố chất của y: “nói gì, sai đó – làm đâu, hỏng đấy”. Khiến cho, Đảng của y, “nát như tương Bần”. Những phần tử suy thoái và biến chất trong Đảng, theo đó, mà sinh sôi – nảy nở. Chúng nhiều như nấm sau mưa, nhiều như củi mục và rác rưởi sau lụt. Chẳng lò nào, thiêu xuể.
Không thành công trên cương vị Tổng Bí thư, nhưng y được cái tính tham lam và cố chấp kéo lại. Đại Quang chết, mả chưa nguội. Y bỏ ngoài tai tất cả mọi lời can gián và trơ trẽn bước qua những lời cảnh báo của chính mình, để tấp tểnh trèo lên ngôi báu. Trong khi, chẳng có công lao và thành tích gì nổi bật. Có chăng, chỉ là câu chuyện: Thời trai trẻ, y đã giả điếc, để trốn nghĩa vụ quân sự và giả đui, để khỏi vào chiến trường. “Nhất tham/ nhị ác; tam dốt/ tứ hèn; ngũ trơ/ lục Cuội”. Đó, là tất cả những phẩm chất nổi trội của “bậc nhân kiệt” Phú Trọng. Còn cái chữ Thiên, trong cụm từ “thế Thiên” kia, đích thị là Thiên triều. Nghĩa là, ông ta được sự ủy nhiệm và thay mặt Tập Hoàng đế, để thi hành cái đạo CS ở nước Nam – Một thứ tà đạo, còn đứng được cho đến tận ngày nay, hoàn toàn cậy nhờ vào 2 đốt xương trụ: Bạo lực tàn độc và tuyên truyền dối trá.
Những cuộc cãi vã kiểu này, nhiều vô kể. Đặt đít xuống bất cứ nơi đâu, cũng có thể được nghe. Nghe nhiều, ù hết cả tai và chóng hết cả mặt.
Dân già tôi, từ xưa – đến nay, vốn bàng quan và không chút hứng thú với những câu chuyện buôn Vua – bán Chúa. Nghe những cuộc đôi co và cãi vã về đề tài: ông Tổng có xứng đáng, để lên ngôi Hoàng đế hay không, lão chẳng muốn tham gia. Bởi lão biết: “Bầu bán Cuội”, là bản chất của mọi chế độ độc tài CS. Hệ quả, dân không được làm chủ Đất nước. Nếu không thay đổi một cách tận gốc – tận rễ của vấn đề Dân chủ, ai lên ngôi Hoàng đế của nước Nam, chung cuộc vẫn là: Hết thế kỉ này, sau bao nhiêu lần “cải cách” với lại “cải tổ”, Đảng CS anh minh, rồi cũng sẽ lại đưa nước ta quay trở về với vạch xuất phát. Vấn đề còn lại, chỉ là: Dân Việt, có muốn quay trở về với cái vạch định mệnh ấy, hay không.
2- Sách Lục thao, thiên Văn sư chép rằng: 凡人恶死而乐生,好德而归利. Phàm nhân ố tử nhi lạc sinh, hiếu Đức nhi qui lợi. Có thể hiểu rằng: Đã là con người, ai cũng tham sống và sợ chết. Nói tới Đức, ai cũng thích nghe và say sưa bàn. Nhưng đến khi hành động, họ lại quên hết những thứ đó và đặt lợi ích của mình, lên hàng đầu. Từ quan – tới dân, thậm chí, trên bình diện Quốc gia, đều như thế cả. Quyền lợi, ai cũng cố vơ. Trong khi, luôn tìm cách lảng tránh nghĩa vụ. Quyền lực, ai cũng tranh giành. Nhưng khi đổ bể, đố tìm được người chịu trách nhiệm.
Từ cái luận điểm ấy, lão đây rất ngạc nhiên, khi thấy ông không muốn làm Thái Thượng hoàng – người đứng sau cánh gà, để giật dây và điều khiển những con rối. Có lẽ, ông quá vụng. Bởi thế, phải bỏ hết cả dây rợ, con rối, cùng mớ que quẽ lằng nhằng, để trực tiếp nhảy lên sân khấu, mà diễn trò. Hay ho gì, cái chuyện đó. Không cần cái danh Hoàng đế, ông đã và cho đến bây giờ, vẫn là người đứng đầu của Đất nước. Mọi công việc, há chẳng phải đều qua tay ông, để ông chỉ đạo chúng một cách: “trực tiếp – toàn diện và tuyệt đối” đó sao. Thắng, ông tranh công. Thua, ông đổ lỗi cho những loại như Ba X và Tư S. Thế, là xong. Cần gì, phải trực tiếp ra mặt và cần gì, phải cố đặt bàn tay của mình lên quyển Hiến pháp, để đưa ra những lời thề, mà ai cũng biết rằng, nó gian dối. Trong khi đó, quỹ thời gian của ông, nào có nhiều nhặn gì. Thời hạn, để được “ngồi trên nóc tủ, ngắm gà khỏa thân”, cũng đã kề cận lắm rồi.
Ông dại, vì muốn ôm cục trách nhiệm vào người. Hay ông là bậc vĩ nhân, là Tô Vĩnh Diện của thời @, quyết lấy thân mình ra, để chèn khẩu pháo, khi nó sắp lăn xuống vực?
3- Cổ nhân dạy: “Một người làm quan, cả họ được nhờ”. Lão với ông, cùng họ Nguyễn. Ông mà là vị Hoàng đế tốt, cả họ Nguyễn nhà mình thơm lây và ngược lại. Với tố chất của ông, cộng với tính cách của ông và thêm vào đó, cả thằng thày của ông nữa, cũng chẳng có gì đảm bảo chắc chắn, ông sẽ công thành – danh toại, trên cái cương vị mới. Hãy gấp những mớ trước tác cổ hủ của Mác – Lê lại và hãy mở rộng cửa, để bước ra ngoài trời, ông sẽ thấy: Gió, đã sắp đổi chiều và cái thời, mà “kiến ăn cá”, cũng đã sắp qua rồi. Hãy suy nghĩ một cách hết sức nghiêm túc, đến ngày mai – Ngày, mà cả đàn cá bâu lại, để xơi kiến. Lạy Thánh, mớ bái. Ông mà có cái kết cục giống như Ceaușescu, cả họ Nguyễn nhà mình, mang nhục. Cực chẳng đã, lão đành biên lá thư này, hiến cho ông 2 kế sách. Thực thi nó, khả dĩ, bình ổn cục diện.
4- Sau khi lên ngôi, bất cứ vị Hoàng đê nào cũng phải làm ngay 2 việc. Đó là, “Đại xá thiên hạ” và “Xuống chiếu cầu hiền”.
a- Khi đại xá thiên hạ, không nhất thiết, phải miễn thuế cho toàn dân. Chỉ cần, bố cáo và cam kết: “không tăng thuế và không tăng giá vô tội vạ, trong suốt thời gian cầm quyền”. Như thế, cũng đã đủ để dân chúng sung sướng đến mức phát điên lên rồi.
Khi đại xá thiên hạ, hãy rà soát lại những bản án quá nặng nề, dành cho những người bất đồng chính kiến. Nên nhớ, mục đích của việc tuyên án, là gieo rắc nỗi sợ hãi cho cả cộng đồng. Người ta không sợ, việc kia vô nghĩa. Giảm án cho người ta, là giảm sự căng thẳng trong đối đầu giữa họ và Chính quyền. Cổ nhân, gọi đó là kế “rút củi đáy nồi”.
Khi đại xá thiên hạ, nếu xét tha tù, đừng có tha cho những quân ăn tàn – phá hại. Bọn này, bị quần chúng căm ghét. Tha cho chúng, ông sẽ tự đặt mình vào thế đối đầu với quần chúng. Người đầu tiên, mà ông cần phải thả, đó chính là Trần Huỳnh Duy Thức. Người này, kiến thức uyên thâm – ý chí kiên cường và chưa lúc nào nguội lạnh tình yêu Quê hương – Đất nước. Tầm ảnh hưởng của ông ta, vì thế, là rất lớn. Không chỉ trong nước, mà Quốc tế, họ cũng rất quan tâm đến trường hợp này. Ông này ở tù, cũng đã đủ lâu và hội đủ nhiều điều kiện, để có thể được tự do. Thả một người có tiếng như ông ta, không cần khua chiêng – gõ mõ, thiên hạ khắc biết lòng dạ và chủ ý của ông trong tương lai. Thả ông ta, vụ Trịnh Xuân Thanh, tự nhiên, sẽ bị lu mờ. Công du nước ngoài, dễ ăn – dễ nói với người ta. Nhắc ông, thêm 1 chi tiết: Dù ai nói thế nào và đưa ra những điều kiện thuận lợi gì, Trần Huỳnh Duy Thức, vẫn một mực từ chối ra nước ngoài tị nạn. Nghĩa là, sâu thẳm trong đáy lòng, ông ta vẫn muốn phục vụ Đất nước và phục vụ Nhân dân, ngay trên quê hương của mình. Nếu thả Trần Huỳnh Duy Thức và tận dụng được chất xám của ông ta vào những công việc thích hợp, ông quả thực là đại tài và hoàn toàn xứng đáng, để khoác lên người, tấm áo danh giá của những “bậc nhân kiệt”.
b- Ai cũng biết, những người làm đi thuê, ở đâu và đời nào, cũng cùng chung mẫu số: “ráo mồ hôi, là hết tiền”. Bởi thế, tự cổ xưa, người ta đã đúc kết: “phi trí – bất hưng”. Muốn Đất nước cất cánh, không thể trông mong ở sức cơ bắp của giai cấp công – nông và cũng không thể trông đợi ở giai tầng lãnh đạo, mà trình độ, còn ở mức “cờ lờ mờ vờ”: Đi đứng, như con lật đật – Nói năng, giống thằng dở hơi và hành xử, hệt loài vô học. “Lượng đổi – chất đổi”. Muốn Đất nước cất cánh, chỉ và chỉ có thể trông đợi vào trí tuệ của những bậc hiền tài. Cái này, đã thừa tiền lệ:
Truyền thuyết kể rằng, đời Hùng Vương thứ Sáu, giặc Ân mang quân sang chiếm nước ta. Vận nước, lâm nguy. Vua bèn sai người đi khắp nước, để cầu hiền tài ra chống giặc. Thánh Gióng xuất hiện và giặc Ân đã được bình.
Tích xưa, cũng kể lại, hễ cứ ngồi xuống đâu, Lê Lợi đều trang trọng cho đặt “cỗ xe cầu hiền” ở phía bên trái của mình. Cầu được hiền tài, Đức Vua Lê mới có thể làm nên kì tích: “lấy ít đánh nhiều – lấy yếu thắng mạnh”. Từ đó, lập nên đại nghiệp.
Cận đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh của các ông, nào có kém gì. Ông tìm cái văn bản có tiêu đề: “Tìm người tài đức”, mà xem. Lợi hại của nó ra sao, tự ông đúc kết.
Đến thời đổi mới, phải kể đến Võ Văn Kiệt. Ông này, không xuống chiếu cầu hiền. Nhưng tập hợp được bên mình nhiều nhân sĩ và trí thức tiêu biểu. Lắng nghe các bậc hiền tài, ông ta làm được ối việc lớn và hiệu quả. Về nghỉ, ông truyền lại “trí nang” (túi khôn) ấy, cho Phan Văn Khải. Đến thời Tấn Dũng, nó bị giải tán. Đồn rằng, đó là chủ ý của ông thày dùi cơ bắpNguyễn Văn Hưởng. Không ai phản biện, đồng nghĩa với không bị ràng buộc. Đầu óc đã ngắn, tham vọng lại nhiều. Nghĩ ra cái gì, là hấp tấp mang tiền đi và làm luôn cái đó. Nhiều “quả đấm thép”, vì thế, đã được vội vã hình thành và chúng đã giáng những gì xuống đầu Dân tộc Việt, thiết tưởng, không cần phải nhắc lại nữa. Chỉ biết rằng, máu mồm – máu mũi của chúng ta, đã ồng ộc tuôn ra và đến nay, chửa có dấu hiệu nào cho thấy, nó sẽ ngừng.
Ôn cố – tri tân. Cạnh ông, hiện giờ, đầy những loài ngu dại. Đứa này, thì đi đếm người trên thế gian, để về đào ao nuôi tôm. Thằng ngọng kia đạo văn, lại được đứng đầu bộ Dục. Con điên nọ, chẳng thèm đếm xỉa đến gia cảnh bần hàn, vẫn quyết dốc hầu bao có hạn, để xây những nhà hát xa xỉ, dành cho tinh hoa của riêng loài tinh tinh đến nghe… Hãy thải bớt những thành phần đó đi. Tìm và bổ nhiệm những người có Tâm và đủ Tầm vào thế chỗ. Không phân biệt, người đó là trong hay ngoài Đảng.
Kế sách trước mắt này, phải gấp rút thực hiện trong ngắn hạn.
5- Bên trong Tử Cấm Thành ở Bắc kinh, có bức hoành phi: 光明正大. Quang – Minh – Chính – Đại. Nghĩa của nó, nhiều người Tàu, dịch là: 心地光明 . 言行正派 . 公正无私. Tâm địa quang minh – Ngôn hành chính phái – Công chính vô tư.
Bức hoành phi này, được treo ngay ngắn trên ngai vàng. Có lẽ, khi trị vì đất nước, các Vua Tàu, đều coi 4 chữ đó là khuôn vàng – thước ngọc; là tôn chỉ và là phương châm hành động cua chính mình.
Ông là người thân Tàu, có tiếng. Ra vào Trung Nam Hải, nhiều và dễ, như đám dân đen chúng tôi đi chợ. Ông cũng nên noi gương Tập Hoàng đế, để sắm 1 bức ấy về và đội nó lên đầu. Lấy 4 chữ ấy, làm kim chỉ nam, để mà hành động. Có điều, nên “vận dụng nó một cách linh hoạt và sáng tạo, vào hoàn cảnh Việt nam”. Cụ thể:
a- Với chữ 光 Quang, nên hiểu theo cái nghĩa, là công khai. Trước mắt, hãy tạm làm mấy viêc nho nhỏ:
Ông hãy công khai với người dân cả nước, về “mật ước Thành đô”, về “Hiệp định phân chia Biên giới Việt – Trung trên đất liền”.
Ông hãy công khai với người dân cả nước, về thu chi ngân sách Quốc gia. Tiện thể, cho người dân chúng tôi biết: Mỗi năm, Đảng CS Việt nam, đã tiêu hết bao nhiêu tiền thuế của chúng tôi và nhận thêm bao nhiêu tiền nữa từ Tàu cộng, để tồn tại. Tiêu như phá mả như thế, nhưng nó đã làm được những gì cho Đất nước và Dân tộc, chúng tôi biết cả rồi. Qua đó, trắng – đen sẽ rõ ràng: Trong quan hệ giữa người dân với Đảng, ai mới phải là người phải mang ơn ai.
Ông hãy cho công khai tài sản của tất cả mọi cán bộ lãnh đạo, không chừa một ai. Bắt đầu, từ Tổng Bí thư – Chủ tịch nước, cho tới anh trưởng thôn. Từ cái bản kê khai ấy, quần chúng sẽ bổ xung cho hoàn chỉnh. Cả nước sẽ được biết: Ai, là Tư bản đỏ – ai, là phú ông và bọn chúng, giàu đên mức độ nào. Thêm một ông Đỗ Mười Hai, là cho tiến hành ngay chiến dịch “cải tạo Tư bản đỏ”. Ngân sách Nhà nước, sẽ đầy – nợ công, sẽ được trả sạch.
Đặc biệt, công khai danh tính của tất cả mọi cán bộ, mà con cái và người thân của họ, đang học tập tại những nước Tư bản thối tha. Chưa đề cập đến vấn đề tài chính, thì ít nhất, những kẻ này cũng đã và đang phản bội lại Lý tưởng Cộng sản. Chính chúng, đã củng cố niềm tin mãnh liệt của quần chúng, rằng: Đảng CS, chuyên sản xuất ra những cái của nợ và thiên đường mà những lãnh tụ CS đã từng hứa, chỉ là cái bánh vẽ.
Cuối cùng, khi xét xử những người bất đồng chính kiến, xin ông, đừng có lặp lại những phiên tòa “xét xử công khai”, nhưng lại cấm cửa báo chí và dân chúng. Thậm chí, thân nhân của những bị cáo, cũng phải đứng chầu rìa. Cách làm này của những người tiền nhiệm, vừa thối tha vừa trơ trẽn. Đừng cố duy trì.
b- Với chữ 明 Minh. Trước hết, nên hiểu theo cái nghĩa, là sáng suốt.
Người xưa có câu: 智者不法愚者拘之. Trí giả bất pháp, ngu giả câu chi. Ngụ ý: Người thông minh, họ luôn căn cứ vào tình huống thực tế, để uyển chuyển thay đổi đường đi – nước bước của mình. Khi làm việc, họ không cứng nhắc dựa vào một cái khuôn phép cố định. Lũ đầu đất, không thế. Bọn này, thày dặn “xuống nước phải mặc áo phao”. Chúng nhắm mắt, làm y như thế. Lũ quét ập đến, chúng mặc vội cái áo phao xịt vào người và phó mặc tính mệnh của mình cho dòng nước xiết. Trong khi, chỉ cần ba, bốn bước chân, là có thể nhảy ngay lên chỗ cao ráo ở trên bờ.
Bằng hành động, hãy gửi một thông điệp đến người dân cả nước: “Phú Trọng tôi, là một người thông minh. Chưa bao giờ, là thằng cố chấp. Giữa chúng ta, có rất nhiều sự khác biệt. Riêng một thứ, đồng thuận cao. Đó là, mô hình CS, đã lạc lõng so với thời đại và đặc biệt, nó không còn thích hợp với Việt nam. Tôi kiên quyết lèo lái, để con thuyền Việt nam không mãi mắc cạn ở đó nữa và cam kết, sẽ dẫn dắt chúng ta hòa nhập với phần còn lại của Thế giới Văn minh”.
c- Với chữ 正 Chính. Nên hiểu theo nghĩa, là chính danh, là ngay thẳng và công bằng. Danh có chính, ngôn mới thuận.
– Cho đến tận bây giờ, trong các bộ Luật của nước CHXHCN Việt nam, chưa có cái nào mang tên “Luật về Đảng”. Không có Luật về Đảng, các ông đăng kí ở đâu – lúc nào và như thế nào, để mà, hoạt động một cách “tự nhiên như ruồi” vậy? Không chính danh, các ông lấy tư cách gì, để moi tiền từ Ngân sách Nhà nước? Không có tiền Ngân sách, liệu mấy đồng Đảng phí của các ông, có đủ trang trải cho riêng cái Đại hội Đảng, mà tận 5 năm mới tổ chức một lần? Nói các ông đang hoạt động ở “ngoài vòng Pháp luật”, có gì sai? Các ông, không thể cù nhầy và trơ trẽn mãi, để bao biện rằng: “Đã có hẳn một Điều 4 to tổ bố, ở trong Hiến pháp”. Nói như thế, ông trả lời ra sao với câu hỏi: Hiến pháp cũng qui định, người dân chúng tôi, có đủ mọi quyền Tự do. Từ tự do ngôn luận, tự do biểu tình, tự do cư trú. .. cho đến cả cái quyền tự do lập hội. Nhưng tại sao, khi chúng tôi thực hiện những quyền Hiến định ấy, các tiền nhiệm của ông lại dùng súng đạn, nhà tù và cả tỉ thủ đoạn đê tiện khác, để đàn áp chúng tôi? Như thế, liệu có gọi là công bằng?
Cho nên, ông hãy gấp rút cho ban hành những bộ Luật, gắn liền với hai chữ “Tự do” thiêng liêng đó.
“Luật về Hội” ra đời, các ông hãy đăng kí, để nhận được sự bảo hộ của Pháp luật. Lúc đó, “danh chính – ngôn thuận” giành quyền cai trị Đất nước và công khai mà tiêu tiền từ Ngân sách Quốc gia. Đừng như bây giờ, giống thằng ăn cắp, xấu hổ lắm. “Luật về Hội” ra đời, sẽ giúp khai thông những bế tắc khi đàm phán, để kí những Hiệp định thương mại tự do. Có những cái Hiệp định đó, Đất nước sẽ mau chóng cất cánh. “Có thực, mới vực được đạo”. Lúc đó, không phải tốc váy lên gào, dân cũng tin và đi theo Đảng.
Đừng có sợ, các loại Hội khác, sẽ nhân đó mà ra đời và khi công khai hoạt động, họ sẽ hót Đảng CS Việt nam vào cái bãi rác của Lịch sử. Họ chưa đủ bản lĩnh và chưa đủ thực lực, để làm cái công việc ấy đâu. Trái lại, hãy coi đó là một liều vac xin, để các ông bừng tỉnh, mà cải tổ triệt để mọi tổ chức của Đảng. Bỏ đi những cái ung nhọt, Đảng của các ông, sẽ trở nên vững mạnh. Không một loại vi rut nào, khi thâm nhập một cơ thể khỏe mạnh, mà gây ra bệnh cho nó được. Đó, là Chân lý. Các thể chế Dân chủ ở phương Tây, là một minh chứng. Tất nhiên, người dân chúng tôi, cũng được lợi. Có Công đoàn Độc lập, giới chủ, dễ dàng gì, để bắt nạt và bắt chẹt công nhân – giai cấp tiên phong và trên lí thuyết, đang là giai cấp lãnh đạo. Nhân đây, lão nhờ ông giải thích cho 1 nghịch lí. Đó là, “vừa đi làm cu- li, để chịu sự sai khiến của chủ, vừa đủ tâm và thừa tầm, để lãnh đạo cả cụ tổ của những cái thằng chủ kia (!)”. Chuyện cổ tích ấy, nó đã xảy ra ở đâu, trên cái thế gian này?
Các bộ Luật khác, khi ban hành, cũng có hiệu ứng tương tự. Dân thỏa lòng, còn Đảng CS, đứng đằng sau thu lợi.
– Một Nhà nước chính trực, không bắt những người vô tội. Bắt ai, phải có lệnh của Tòa án và phải bắt họ, giữa thanh thiên – bạch nhật. Dùng thủ đoạn của Xã hội đen, để bắt cóc người ta, lợi ít – hại nhiều. Trịnh Xuân Thanh, là 1 ví dụ. Cái giá mà Đất nước phải trả trong vụ này, quá đắt. Những hệ lụy của nó, đâu có thể ngày một – ngày hai, mà khắc phục được. Tổn thất một cách thê thảm về kinh tế, là đương nhiên. Tuy thế, nó vẫn không là cái gì, so với nỗi mất mặt 1 cách nhục nhã và ê chề trên trường Quốc tế. Ông hãy lôi cái thằng đầu têu trong vụ này ra, mà trị tội. Trước, xoa dịu sự phẫn nộ của dư luận trong và ngoài nước, trả lại thanh danh, cho Nhà nước và Nhân dân Việt nam. Sau, gián tiếp chứng minh cho sự trong sạch của chính bản thân mình.
– Người xưa có câu: 非工不盛 Phi công, bất thịnh. Ở tầm Quốc gia, câu này, nên hiểu là: không tăng gia sản xuất, Đất nước chẳng thể thịnh vượng. Muốn tăng gia sản xuất, tối quan trọng, cần hội đủ đồng thời cả 2 thứ. Đó là chất xám và vấn đề “đầu tiên”, nghĩa là tiền đâu. Cả 2 thứ này, xin lỗi ông, các ông đã cạn kiệt cả rồi. Khi không thể “bắc nước đợi gạo người”, các ông chỉ có thể trông chờ vào nội lực: Bà con trong nước và Việt kiều. Tiếc thay, với cái gọi là “tư duy nhiệm kì”, các ông không có những kế hoạch dài hơi. Xuyên suốt trong cái chủ trương “mì ăn liền” của các ông, chỉ có 2 cụm từ. Một, là “lừa đảo” – Hai, là “ăn cướp”. Trong tư duy của các ông, chưa bao giờ có các cụm từ “giữ chữ tín” và “chịu trách nhiệm”. Kể ông nghe, chỉ 2 trường hợp: Việt kiều Trịnh Vĩnh Bình và ông giáo già Nguyễn Tiến Dân.
Người thứ nhất, các ông lừa người ta đem tiền về nước kinh doanh. Với tài nghệ của mình, khối tài sản của ông này tăng đến mức chóng mặt. Nhẽ ra, phải coi đây là hàng trưng bày trong tủ kính, để thu hút vốn đầu tư và chất xám của bà con Việt kiều. Nhưng, không. Đợi con vịt kia béo mầm, thuộc cấp của ông vu khống, rồi lấy đó làm cớ, để tống người ta vào tù. Của cải, chúng sung tiệt vào túi cá nhân. Gian khổ lắm, Vĩnh Bình mới chạy thoát. Ông ta kiện Nhà nước CS ra tòa án Quốc tế. Các ông, thua đứt. Đơn giản, nếu thắng, các ông tha gì mà không đánh trống và thổi kèn rầm rĩ lên. Ông hãy gọi thuộc cấp đến và nói nhỏ vào tai nó: “Chưa trả tiền cho Trịnh Vĩnh Bình theo phán quyết của tòa Quốc tế, Nhà nước của chúng ta, sẽ được gắn cái mác Nhà nước của bọn thảo khấu. Chưa trả tiền cho con cò mồi Trịnh Vĩnh Bình, lấy gì, để lừa cả đàn cò Việt kiều kia. Lợi hại thế nào, chúng mày, liệu mà khu xử”.
Người thứ 2, các ông lừa người ta đem tiền mặt cho Chính quyền vay, phục vụ cho chương trình “xóa đói, giảm nghèo” của các ông. Cụ thể, nó được dùng để xây hồ thủy lợi, tại xã Phú Mãn, huyện Quốc Oai, TP Hà nội. Mục đích, lấy nguồn nước tự chảy, phục vụ cho bà con Dân tộc canh tác lúa nước. Hồ xây xong, chính quyền CS lật mặt, không chịu thực hiện nghĩa vụ của mình trong Bản cam kết đầu tư. Tiền, không chịu trả. Lên gặp, không thèm tiếp. Chuyện đến tai Chung con – người, mà bây giờ, đứng đầu UBND TP Hà nội. Ông này, chỉ thị xuống. UBND huyện Quốc Oai, buộc phải tiếp Dân già một cách chiếu lệ. Từ đó đến nay, đã 2 năm trôi qua, chúng tiếp tục đánh bài lờ. Quyết, không chịu trả tiền. Trong vụ này, chỉ có 1 điểm khác duy nhất, so với Trịnh Vĩnh Bình: chúng không dám dùng cái qui trình đê tiện “vu khống – hại người – cướp của”. Bởi, chúng thừa biết, thời thế, đã thay đổi. Không dễ dùng cái cách “gái đĩ già mồm”, để chơi trò “gắp lửa, bỏ tay người”.
Đó, chỉ là 2 trong vô vàn những nạn nhân khác của Chế độ CS. Tất cả những nạn nhân này, mỗi khi có dịp, đều muốn chỉ thẳng tay vào những bộ mặt thớt của các ông, để tố cáo với dư luận trong và ngoài nước, sự đê tiện của Chính quyền CS.
Rõ ràng, Chính quyền CS của các ông, đã để rơi chữ 正 Chính – cái chữ thứ 3 trên bức hoành phi ấy. Trong nhiệm kì tới đây, trên cương vị Hoàng đế, hãy nhặt nó lên và gắn vào cái chỗ, vốn là của nó, ông nhé.
– Với chữ 大 Đại. Nên hiểu theo nghĩa, là Khoan dung – Nhân từ – Đại/ độ lượng.
Chiến tranh Việt nam kết thúc, với phần thắng, thuộc về phe miền Bắc. “Nhất tướng công thành – vạn cốt khô”. Đúng vậy, chiến thắng này, được xây dựng trên núi xương – sông máu của hàng triệu những người con ưu tú của cả 2 phía. Nhiều đến mức, nghĩa trang Tử sĩ, bạt ngàn trên khắp Đất nước ta. Người mất đi, nhưng nỗi đau, còn ở lại. Những bà mẹ của họ, vẫn phải sống quằn quại trong nỗi đau mất con và đêm đêm, vẫn đờ đẫn hướng mắt ra cửa, cùng với niềm tin tuyệt vọng: Có 1 ngày nào đó, đứa con thân yêu của mình, sẽ trở về. Đứng trước thảm cảnh đó, tưởng rằng, sau khi thắng, kẻ mạnh cũng phải có chút ăn năn và có cách cư xử thật nhân văn. Ai ngờ, họ lại giở ngay cái thói: “báo ân – báo oán, nữ nhi thường tình” ra, để xài. Quân – Cán – Chính của phe miền Nam, được gọi chung, là “ngụy”: Người sống, bị lừa vào trại lao cải. Kẻ đã chết, cũng trở thành tù binh, trong những nghĩa trang có hàng rào dây thép gai bao vây. Tột cùng của sự khốn nạn, hàng năm, Đảng CS vẫn linh đình tổ chức nhảy múa, trong cái ngày đau thương, mà họ gọi là Chiến thắng. Về những việc này, ngay cả Võ Văn Kiệt, cũng không hài lòng. Ông ta cho rằng: “Vết thương chung của dân tộc như vậy, cần được giữ lành. Thay vì, lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu”. Trước khi chết, ông ta còn gửi tới các đồng chí của mình, lời nhắn: “Để mọi người Việt Nam chung tay hàn gắn vết thương chiến tranh, thì chúng ta, những người chiến thắng và đang lãnh đạo đất nước, ‘phải thực tâm khoan dung và hòa hợp’ ”. Một ý tưởng, không tồi. Chẳng biết, ông Tổng đã có cái thực tâm ấy, hay chưa?
6- Trước khi khép lại thư này, lão muốn ông Tổng áp chữ 大 Đại vào trái tim và suy nghĩ nghiêm túc về những chuyện sau:
– Trời phú cho chúng sinh, mỗi người một cái mồm. Ngụ ý, cấp cho họ cái quyền được ăn và quyền được nói. Dưới bất cứ hình thức nào, các ông, đừng vì: “Nhất Đảng – nhì Trời” mà ngang nhiên tước đi của họ, cái quyền Tự do ngôn luận đó. Luật An ninh mạng, vì thế, nên hoãn vô thời hạn việc thi hành.
– Đừng sợ những người bất đồng chính kiến. Giữa các ông và họ, đâu phải, chỉ tồn tại những dị biệt, Điểm tương đồng, có nhiều và rất lớn. Ông hãy dũng cảm bỏ đi cái tính hẹp hòi và ích kỉ của mình. Lời nói của các ông, đâu phải, lúc nào cũng là Chân lý. Họ, cũng vậy. Hãy mở lòng ra, cùng ngồi xuống để đàm đạo với nhau. Thay vì cấm đoán, hãy khuyến khích họ nói “không” với những luận điểm của các ông. Đồng thời, yêu cầu họ giải thích: tại sao lại nói như thế và cuối cùng, đề nghị họ đưa ra giải pháp. “Gạn đục – khơi trong”, người được lợi và thu hoạch được nhiều nhất, chính là các ông. “Làm anh khó lắm”, huống chi, làm Hoàng đế. Khi người ta nói trái ý mình, phải giải thích cặn kẽ, Đừng có nổi khùng lên, rồi phang thật lực vào mặt người ta.
“Bụt trên tòa, gà nào mổ mắt”. Khi mặt mình sạch – tâm mình sáng, ai mà chỉ trích được mình. Tu thân – tề gia – trị quốc – bình thiên hạ. Chuyện ấy, chưa lúc nào lỗi thời đâu, ông ạ.
Chào ông và hẹn sớm tái ngộ!
© Nguyễn Tiến Dân
Tel: 038 50 56 430 (số này, được Viettel tự động đổi. Số cũ: 0168 50 56 430)
Địa chỉ: Vì tin vào cái lũ CS đê hèn, nên bị chúng lừa đảo và cướp sạch của cải. Bởi thế, mất nhà và trở thành dân du mục. Nay đây – mai đó, chưa có nơi ở cố định.
Địa chỉ: Vì tin vào cái lũ CS đê hèn, nên bị chúng lừa đảo và cướp sạch của cải. Bởi thế, mất nhà và trở thành dân du mục. Nay đây – mai đó, chưa có nơi ở cố định.
Không có nhận xét nào