Khác
với người tiền nhiệm, lãnh đạo mới của Cục An ninh mạng (A05 - nhập từ
A68 và C50) đã lắng nghe ý kiến của Bộ Thông tin Truyền thông (TTTT) và
của các bộ ngành hơn. Dự thảo mới nhất của Nghị định hướng dẫn thi hành
Luật An Ninh Mạng (ANM), vì thế, đã bỏ khá nhiều quy định xâm phạm quyền
tự do kinh doanh từng bị phản đối trong hai dự thảo trước (3-10 &
11-10-2018).
Hình minh họa |
Dự
thảo mới cũng đã bỏ yêu cầu “doanh nghiệp kinh doanh online phải xin
phép và có sự đồng ý của Cục ANM” (một biến trướng của giấy phép con);
bỏ việc thành lập trung tâm dữ liệu và tiếp nhận dữ liệu doanh nghiệp
chuyển giao… Dự thảo cũng không còn yêu cầu doanh nghiệp cung cấp dữ
liệu gốc, chưa mã hóa của người dùng cho cơ quan điều tra. Bằng cách
không dùng các từ nhạy cảm như “thái độ, quan điểm…”, dự thảo có cho cảm
giác thu hẹp phạm vi dữ liệu người dùng nằm trong tầm kiểm soát của Cục
An ninh mạng. Thẩm quyền yêu cầu doanh nghiệp chuyển dữ liệu bây giờ là
bộ trưởng bộ Công an thay vì cục trưởng cục An ninh mạng như hai dự
thảo cũ.
Tuy
nhiên, bản chất của dự thảo này vẫn chưa thay đổi. Phạm vi dữ liệu
người dùng bị buộc phải lưu trữ ở Việt Nam vẫn còn rất rộng - gần như
toàn bộ dữ liệu của mạng xã hội và các dịch vụ online - chi phí của nền
kinh tế để thi hành luật là vẫn vô cùng lớn và vô lý.
Đặc
biệt, cách làm Luật ANM và các nghị định là một ví dụ điển hình vi phạm
các nguyên tắc căn bản khi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật.
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 đòi, một luật nếu cần “văn
bản quy định chi tiết” (thông tư, nghị định) thì các “dự thảo văn bản
quy định chi tiết phải được chuẩn bị và trình đồng thời với dự án luật,
pháp lệnh” (Điều 11). Hậu quả của việc không tuân thủ nguyên tắc này là,
không chỉ dân chúng mà cả Quốc hội cho đến tận bây giờ cũng chưa hiểu
hết tầm ảnh hưởng của Luật ANM.
Đối
tượng và phạm vi điều chỉnh là một trong những điểm cốt yếu nhất của
một quy phạm, lẽ ra nó phải được minh định ngay trong luật, Luật lại
giao cho cơ quan thi hành luật lên danh sách (doanh nghiệp được lưu
chuyển dữ liệu; phải lưu dữ liệu và đặt văn phòng đại diện tại VN). Cách
tiếp cận của dự thảo là đã coi các doanh nghiệp, dân chúng, những người
tham gia mạng xã hội (MXH) như đã là tội phạm. Cục ANM, cơ quan soạn
thảo, đã tự trao cho mình quyền quản lý nhà nước đặc biệt với hoạt động
kinh doanh, phần việc nếu cần thì phải thuộc về Bộ TTTT. Công an là lực
lượng chống tội phạm, lẽ ra chỉ được trinh sát, điều tra khi có dấu hiệu
phạm tội.
Phần
quy định cụ thể về “chặn dịch vụ, gỡ thông tin người dùng trên
MXH/internet…” cho đến nay vẫn nằm trong một nghị định bị đóng dấu mật,
một cách làm chính sách mà không có quốc gia nào chấp nhận. Và, mặc dù
đã bỏ nội dung yêu cầu cung cấp “dữ liệu đã được mã hóa” nhưng các doanh
nghiệp vẫn phải “cung cấp dữ liệu cho cơ quan điều tra” trong khi không
nêu rõ trình tự thủ tục để thực thi quyền đó.
Những
dữ liệu mà người dùng cung cấp cho các MXH hay các dịch vụ internet
thuộc quyền sở hữu của công dân, có những dữ liệu còn là tài sản của
công dân; nhiều dữ liệu thuộc phạm vi “bí mật đời tư” được Hiến pháp bảo
hộ. Trừ những người có hành vi phạm tội, không ai được quyền cung cấp
những dữ liệu đó kể cả cung cấp cho cơ quan nhà nước. Quyền đòi cung cấp
dữ liệu người dùng phải là quyền tư pháp. Cơ quan điều tra chỉ được
quyền thu thập những thông tin được coi là bằng chứng đối với những
người bị điều tra trong một vụ án đã bị khởi tố chứ không phải tùy tiện
như viết trong dự thảo.
Nguyên
tắc các văn bản quy phạm “không làm cản trở việc thực hiện các điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên” (Điều 5, khoản 5, Luật BHVB 2015)
cũng không được Luật ANM và các dự thảo nghị định tuân thủ. Khi ký TPP
và ngay cả khi ký CPTPP, VN đều cam kết “không bắt buộc đặt máy chủ tại
một địa điểm xác định, kể cả lãnh thổ nước mình”. Vậy nhưng Luật và nghị
định vẫn đòi các doanh nghiệp phải “lưu trữ dữ liệu người dùng tại VN”.
Cái cách tướng Võ Trọng Việt “kéo đám mây dữ liệu” về VN cho thấy ông,
hoặc là không hiểu gì về iCloud và MXH nói chung, hoặc đã nghe các báo
cáo không trung thực về “máy chủ và đám mây điện toán”.
Việt
Nam cũng đã cam kết trong NAFTA, WTO, TPP & CPTPP, « Đảm bảo quyền
tự do lưu chuyển, lưu trữ thông tin mà ko bị kiểm soát, ngăn chặn (trừ
liên quan đến quốc phòng, an ninh, đảm bảo trật tự an toàn xã hội);
không đánh thuế vào các giao dịch điện tử xuyên biên giới ». Chúng ta đã
hội nhập. Không như các cam kết WTO hay trong ASEAN, các hiệp định như
CPTPP và EVFTA có các chế tài rất nghiêm ngặt, nếu vẫn thi hành Luật ANM
với cách tiếp cận như hai nghị định đang chuẩn bị, VN chắc chắn sẽ đối
diện ngay với các chế tài.
Không
phủ nhận là trên “hệ sinh thái số” đang xuất hiện khá nhiều hành vi có
dấu hiệu tội phạm, nhưng bộ luật hình sự (BLHS) đã định rất nhiều tội
danh dành cho những hành vi này. Chưa kể, khác với các quốc gia văn
mình, BLHS VN còn coi nhiều hành vi đơn thuần chỉ là bày tỏ chính kiến,
phản đối ôn hòa… như tội phạm.
Tội
phạm sử dụng MXH gây án chứ tự thân MXH không thể gây án. Lẽ ra, Luật
này chỉ nên đưa ra các nguyên tắc thu thập bằng chứng điện tử và các chế
tài bổ sung (gỡ bài, gỡ link… khi tòa đã coi là tin xấu) khi điều tra
29 tội danh trong BLHS vừa trở thành đối tượng điều chỉnh của Luật này.
Sai
một ly, đi một dặm. Giao cho Bộ Công an làm Luật ANM là cái gốc của
sai. Tiến trình soạn thảo, thông qua lại ít lắng nghe, lạm quyền, trấn
áp những tiếng nói khác. Luật được chuẩn bị mà vừa không tuân thủ các
quy định của pháp luật VN (Luật BHCVB QPPL 2015) vừa bỏ ngoài tai các
cam kết quốc tế thì không sai mới lạ.
Luật
ANM và các quy phạm đang hình thành trong nghị định không những không
có giải pháp nào bảo vệ hữu hiệu mạng VN trước các hacker, mà còn đặt nó
trong những nguy cơ cao hơn, khi ép lưu trữ dữ liệu cá nhân trong một
quốc gia có nền tảng công nghệ thấp và đội ngũ thi hành công vụ rất dễ
lạm quyền. Luật không những không giúp bảo vệ chế độ mà (sự bóp nghẹt
MXH) còn làm tăng ứng chế trong xã hội, nuôi dưỡng nguy cơ cao hơn cho
chế độ. Luật không những đe doạ tăng trưởng kinh tế, giảm đầu tư mà còn
trình bày một hình ảnh rất xấu cho VN trong mắt cộng đồng quốc tế.
Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội, Bộ Chính trị và Tân Chủ tịch nước nên nghe lại,
đầy đủ và nhiều chiều. Nếu nghị định không hạn chế được các ảnh hưởng
xấu của Luật thì nên hoãn thi hành nó. Tôi tin, nếu trước đây, các cơ
quan thẩm quyền được nghe đánh giá đầy đủ tác động của Luật An Ninh Mạng
thì Luật này đã không được ban hành như thế.
Huy Đức
(FB Trương Huy San)
Không có nhận xét nào